Responsive image

Chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 05/1

Thông tin báo chí chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 05/1

 

THÔNG TIN BÁO CHÍ

    THÔNG TIN CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

 

Thủ tướng chỉ thị đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại DN

Hôm nay (5/1/2019), Thủ tướng Chính phủ vừa ký ban hành Chỉ thị 01/CT-TTg về việc tăng cường công tác chỉ đạo, đẩy mạnh công tác cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước.

Trong những năm qua, công tác cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN), thoái vốn đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. DNNN đã giảm mạnh về số lượng, từ năm 2016 đến tháng 11 năm 2018, cả nước đã cổ phần hóa được 147 doanh nghiệp trong đó có nhiều doanh nghiệp quy mô vốn nhà nước lớn, riêng trong năm 2017, tổng quy mô vốn nhà nước được xác định lại tại các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa đạt trên 160.000 tỷ đồng, bằng 81,5% tổng giá trị phần vốn nhà nước ở các doanh nghiệp được cổ phần hóa giai đoạn 2011 - 2015; thực hiện thoái vốn nhà nước tại nhiều doanh nghiệp, thu về được gần 155 nghìn tỷ đồng. Các DNNN được cơ cấu lại đã tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực quan trọng, thực hiện vai trò, nhiệm vụ làm nòng cốt điều tiết, ổn định kinh tế vĩ mô; hiệu quả hoạt động của DNNN và doanh nghiệp sau cổ phần hóa được nâng lên.

Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, còn một số tồn tại, hạn chế. Để đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn tới, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN tăng cường chỉ đạo, đẩy mạnh công tác cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước, đáp ứng các yêu cầu:

1. Quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN theo Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và Nghị quyết số 60/2018/QH14 ngày 15/6/2018 của Quốc hội khóa XIV để nhận thức đúng, đầy đủ theo nguyên tắc thị trường, tuân thủ pháp luật đảm bảo công khai, minh bạch, kiên quyết đẩy lùi các hạn chế, tiêu cực làm chậm quá trình cổ phần hóa, thoái vốn.

2. Hoàn thành việc xây dựng, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành Quyết định phê duyệt phương án cơ cấu lại các DNNN trực thuộc theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 707/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 làm cơ sở để các đơn vị tổ chức triển khai thực hiện.

3. Đẩy nhanh công tác cổ phần hóa, phấn đấu hoàn thành kế hoạch theo danh sách ban hành tại văn bản số 991/TTg-ĐMDN ngày 10/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Đối với các doanh nghiệp không có khả năng hoàn thành kế hoạch do lý do khách quan cần kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ các khó khăn, vướng mắc để xem xét, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn, đảm bảo kế hoạch đề ra.

4. Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty, DNNN, người đại diện phần vốn tại doanh nghiệp có vốn nhà nước xây dựng lộ trình, thời gian cụ thể để triển khai việc thoái vốn tại doanh nghiệp theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg ngày 17/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ.

5. Rà soát, điều chỉnh lại danh sách các đơn vị thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn giai đoạn 2018 - 2020, đảm bảo khả năng thực hiện. Rà soát các đơn vị thoái vốn chưa thực hiện được trong giai đoạn 2016 - 2018 để chuyển giao sang SCIC để thực hiện thoái vốn trong giai đoạn 2019 - 2020.

6. Các doanh nghiệp (bao gồm cả các doanh nghiệp thuộc tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước) đã cổ phần hóa nghiêm túc thực hiện việc đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán và việc thu, nộp tiền thu phát sinh từ cổ phần hóa, thoái vốn về Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp (Quỹ) theo quy định.

7. Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp khẩn trương ổn định cơ cấu tổ chức, bộ máy, thực hiện tốt nhiệm vụ đại diện chủ sở hữu nhà nước tại 19 tập đoàn, tổng công ty được chuyển giao. Đối với các doanh nghiệp còn lại thuộc diện bàn giao về SCIC, thực hiện nghiêm việc chuyển giao theo quy định.

8. Xác định rõ trách nhiệm cá nhân, tổ chức trong việc để chậm trễ trong công tác cổ phần hóa, thoái vốn, đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán, quyết toán cổ phần hóa và nộp tiền kịp thời, đầy đủ về Quỹ; việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính, chấp hành các quy định về cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại và hiệu quả hoạt động của DNNN; có chế tài đủ mạnh, xử lý nghiêm các vi phạm, không để tái diễn.

Trước 15/1/2019 hoàn thành phê duyệt phương án cơ cấu lại các doanh nghiệp

Để thực hiện tốt mục tiêu, yêu cầu nêu trên, Thủ tướng yêu cầu các Bộ trưởng, Trưởng ngành, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các tập đoàn, tổng công ty, DNNN đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, tập trung chỉ đạo và triển khai tốt các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.

Trong đó, cần khẩn trương hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật phục vụ quá trình cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước trong năm 2019.

Các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN trước ngày 15/1/2019 hoàn thành việc phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cơ cấu lại các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực quản lý theo đúng quy định tại Quyết định số 707/QĐ-TTg ngày 25/5/2017, trong đó nêu rõ tiến độ, cơ quan tổ chức thực hiện, người chịu trách nhiệm.

Trường hợp cần điều chỉnh danh mục, tiến độ cổ phần hóa, thủ trưởng các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, địa phương, Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phải báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ trước ngày 20/1/2019, trong đó nêu rõ tiến độ thực hiện, cơ quan thực hiện, làm cơ sở để Thủ tướng phê duyệt, các cơ quan liên quan đôn đốc, giám sát tiến độ thực hiện.

Trường hợp không triển khai thoái vốn đúng tiến độ đối với những danh mục đã được duyệt, thủ trưởng các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, địa phương có trách nhiệm chuyển giao về SCIC trước ngày 31/3/2019 để tổ chức thoái vốn theo quy định.

Các DNNN thuộc diện cổ phần hóa cần khẩn trương rà soát toàn bộ quỹ đất đang quản lý, sử dụng để lập phương án sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai trình Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ý kiến về phương án và giá đất để cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa theo đúng quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP và Nghị định số 126/2017/NĐ-CP.

Kiên quyết xử lý dứt điểm các dự án đầu tư chậm tiến độ, thua lỗ

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, địa phương, tập đoàn, tổng công ty, DNNN tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn và quản lý, sử dụng vốn nhà nước. Đồng thời, phải kiên quyết xử lý dứt điểm các DNNN, các dự án đầu tư chậm tiến độ, hoạt động thua lỗ, kém hiệu quả theo cơ chế thị trường; xem xét, thực hiện phá sản DNNN theo quy định của pháp luật; thực hiện cơ cấu lại và chuyển nhượng dự án cho nhà đầu tư thuộc thành phần kinh tế khác. Làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật những vi phạm của các tổ chức, cá nhân liên quan để xảy ra tình trạng doanh nghiệp nhà nước, dự án đầu tư thua lỗ, thất thoát, lãng phí lớn.

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, DNNN định kỳ công bố công khai thông tin về cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước làm cơ sở để theo dõi, đánh giá tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

Quy định nhiệm vụ, chế độ, chính sách đối với Kiểm lâm

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 01/2019/NĐ-CP về Kiểm lâm và Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng.

Nghị định này quy định chi tiết về nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, trang bị bảo đảm hoạt động và chế độ, chính sách đối với Kiểm lâm; nhiệm vụ, quyền hạn và bảo đảm hoạt động của Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng của chủ rừng.

Nghị định nêu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm lâm trung ương là tham mưu cho người đứng đầu cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý nhà nước về lâm nghiệp: xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch, phương án, đề án về quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy và chữa cháy rừng, bảo đảm chấp hành pháp luật về lâm nghiệp.

Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy và chữa cháy rừng, bảo đảm chấp hành pháp luật về lâm nghiệp trên phạm vi toàn quốc. Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy và chữa cháy rừng, bảo đảm chấp hành pháp luật về lâm nghiệp trên phạm vi toàn quốc.

Quản lý, chỉ đạo Kiểm lâm vùng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm lâm trung ương về quản lý, bảo vệ rừng, bảo đảm chấp hành pháp luật về lâm nghiệp và tổ chức lực lượng chuyên ngành về phòng cháy và chữa cháy rừng trên phạm vi vùng được giao phụ trách…

Về trang bị bảo đảm hoạt động của Kiểm lâm, Nghị định nêu rõ: Kiểm lâm được trang bị thống nhất về đồng phục, kiểm lâm hiệu, phù hiệu, cấp hiệu, cờ hiệu, cờ truyền thống, giấy chứng nhận kiểm lâm.

Kiểm lâm được trang bị và sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật; được trang bị các loại phương tiện, thiết bị chuyên dụng tiên tiến, hiện đại để thực hiện nhiệm vụ quản lý rừng, theo dõi diễn biến rừng, phòng cháy và chữa cháy rừng, tuần tra, kiểm tra, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực lâm nghiệp.

Chế độ, chính sách đối với Kiểm lâm được quy định như sau: Kiểm lâm được hưởng chế độ lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.

Kiểm lâm trong khi trực tiếp làm nhiệm vụ bị thương được hưởng chế độ, chính sách như thương binh, bị hy sinh được công nhận liệt sĩ theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/02/2019.

Quy định về phòng thủ dân sự

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 02/2019/NĐ-CP về phòng thủ dân sự.

Nghị định này quy định nguyên tắc tổ chức, nhiệm vụ, hoạt động phòng thủ dân sự; bảo đảm phòng thủ dân sự; trách nhiệm của các bộ, ngành trung ương và Ủy ban nhân dân các cấp về phòng thủ dân sự.

Việc tổ chức và hoạt động phòng thủ dân sự phải đảm bảo nguyên tắc: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phòng thủ dân sự đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Chính phủ, trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, quản lý, điều hành của chính quyền các cấp và người đứng đầu các cơ quan, tổ chức; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân.

Phòng thủ dân sự được tổ chức từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, địa phương chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện phòng thủ dân sự.

Tăng cường, củng cố năng lực phòng thủ dân sự là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; phòng thủ dân sự phải được chuẩn bị từ trước khi xảy ra các thảm họa, chiến tranh; tích cực thực hiện phương châm phòng là chính; chủ động ứng phó kịp thời khi có thảm họa, chiến tranh, khắc phục hậu quả; phát huy vai trò của lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ, chỉ huy tại chỗ, hậu cần tại chỗ.

Về trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng thủ dân sự, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng thủ dân sự; Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng thủ dân sự; các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng thủ dân sự thuộc lĩnh vực được phân công trên phạm vi cả nước; UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về phòng thủ dân sự tại địa phương.

Thủ tướng bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng Đại học Quốc gia Hà Nội

Tại Quyết định 11/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm ông Nguyễn Kim Sơn, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Đại học Quốc gia Hà Nội nhiệm kỳ 2018 - 2023.

Giải pháp đột phá để xây dựng con người Việt Nam

Thủ tướng Chính phủ đã trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quốc Hưng (Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội) về giải pháp đột phá để xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Thủ tướng Chính phủ cho biết, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã khẳng định vấn đề phát triển con người toàn diện là một trong những nhiệm vụ tổng quát của giai đoạn 2016 - 2020. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi sự vào cuộc của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục với nhiều giải pháp đồng bộ, toàn diện, triệt để.

Trong đó, cần chấn chỉnh đạo đức xã hội, củng cố niềm tin vào chế độ. Cụ thể, khắc phục bệnh dối trá, đạo đức giả, nói không đi đôi với làm. Từ các cấp lãnh đạo, quan chức phải làm gương về đạo đức, tư cách, phẩm chất đến các tầng lớp xã hội phải khắc phục bệnh thành tích, giả dối, sống hai mặt, củng cố niềm tin vào những mặt tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; mọi người đều phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các sai phạm.

Bên cạnh đó, tăng cường vai trò, trách nhiệm của ngành giáo dục, trường học trong hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa. Ngành giáo dục cần đổi mới phương pháp, nội dung hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa, kỹ năng sống theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

Đồng thời, đề nâng cao trách nhiệm của báo chí, thông tin truyền thông trong đấu tranh phòng và chống suy thoái đạo đức, lối sống, báo chí cần định hướng, tạo làn sóng mạnh mẽ trên các phương tiện truyền thông về việc chống suy thoái đạo đức, lối sống; đi đầu trong biểu dương nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; phát hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội.

Thực hiện tốt công tác giải quyết việc làm, cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, hướng tới mục tiêu việc làm bền vững, đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động; có chính sách thu hút nhân tài; tuyển dụng, đánh giá, đãi ngộ, bổ nhiệm theo năng lực và phẩm chất cá nhân.

Đề cao vai trò giáo dục, cảm hóa của văn học nghệ thuật, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Phấn đấu có những bộ phim, tác phẩm, vở diễn, chương trình nghệ thuật chất lượng cao, góp phần bồi bổ tâm hồn, xây dựng nhân cách, giáo dục đạo đức. Phát huy tài năng, tâm huyết, trách nhiệm, ý thức công dân của đội ngũ văn nghệ sỹ.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả của các thiết chế văn hóa - thể thao, các sinh hoạt văn nghệ, hoạt động cộng đồng, phong trào văn hóa góp phần nâng cao đời sống tinh thần và thể chất của nhân dân. Lấy môi trường văn hóa lành mạnh, đời sống văn hóa phong phú đẩy lùi nguy cơ con người sa vào các tệ nạn xã hội hay tha hóa về đạo đức, lối sống. Tiếp tục thí điểm thực hiện “Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình”. Xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí đạo đức, quy tắc ứng xử phù hợp với từng lĩnh vực như: du lịch, đào tạo, văn hóa công sở, văn hóa doanh nghiệp...

Kiên quyết chấn chỉnh, xử lý các vi phạm đạo đức trong lĩnh vực văn hoá, nhất là các sai phạm trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn, bản quyền tác giả, mỹ thuật, nhiếp ảnh, điện ảnh, tổ chức lễ hội, du lịch, thể dục thể thao, nhất là những hành vi bạo lực, phản cảm, ứng xử thiếu văn hóa. Siết chặt quản lý các sản phẩm, dịch vụ văn hóa độc hại.

Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác bồi dưỡng cán bộ Hội liên hiệp Phụ nữ

Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả công tác bồi dưỡng cán bộ, công chức Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp; góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp và Chi hội trưởng Phụ nữ có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tâm huyết với công tác phụ nữ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sâu sát cơ sở; hội tụ đầy đủ năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới.

Đó là mục tiêu của Đề án bồi dưỡng cán bộ, công chức Hội liên hiệp Phụ nữ các cấp và Chi hội trưởng Phụ nữ giai đoạn 2019 – 2025 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Đề án đặt mục tiêu cụ thể đến năm 2020 tối thiểu 70% cán bộ, công chức Hội Liên hiệp Phụ nữ ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội, công tác xã hội hoặc bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên sâu theo vị trí việc làm. Tối thiểu 70% Chi hội trưởng Phụ nữ được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội.

Giai đoạn đến năm 2025 các con số trên đều đạt 100%.

Để đạt được các mục tiêu trên, Đề án sẽ hoàn thiện chương trình, tài liệu bồi dưỡng, bảo đảm cập nhật một số kiến thức, nội dung mới về công tác Hội, công tác xã hội, công tác phụ nữ và bình đẳng giới, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế. Ngoài ra, sẽ xây dựng mới một số chương trình, tài liệu bồi dưỡng; bảo đảm chương trình, tài liệu không trùng lặp, phù hợp với từng cấp Hội, từng địa bàn quản lý; kết cấu hợp lý giữa lý thuyết và thực hành, tăng thời lượng thực hành.

Bên cạnh đó, Đề án cũng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động bồi dưỡng; nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên; hình thành đội ngũ báo cáo viên, chuyên gia có kinh nghiệm thực tiễn trong công tác Hội, công tác xã hội, công tác phụ nữ và bình đẳng giới.

Chuyển 2 đơn vị sự nghiệp công lập tỉnh Phú Yên thành cty cổ phần

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt danh mục đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên chuyển thành công ty cổ phần giai đoạn 2018-2020.

Theo đó,Thủ tướng Chính phủ đồng ý chuyển 2 đơn vị sự nghiệp công lập Trung tâm Đăng kiểm phương tiện giao thông vận tải 78.01S và Bến xe liên tỉnh Phú Yên thành công ty cổ phần, Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ hoặc không nắm giữ cổ phần, thực hiện trong giai đoạn 2018-2020.

Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên chỉ đạo 2 đơn vị sự nghiệp công lập nêu trên thực hiện rà soát, xử lý đất đai và triển khai cổ phần hóa theo đúng quy định tại Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg về chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần, Quyết định số 31/2017/QĐ-TTg về tiêu chí, danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần và các văn bản pháp luật liên quan, bảo đảm phương án tiếp tục cung cấp dịch vụ với chất lượng tốt; trình Thủ tướng Chính phủ phương án chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập nêu trên thành công ty cổ phần.

Sau khi cổ phần hóa, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên là cơ quan đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các công ty cổ phần (nếu còn vốn nhà nước).

Chuẩn bị tổ chức Diễn đàn Kinh tế Việt Nam năm 2019

Chính phủ sẽ phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương tổ chức Diễn đàn Kinh tế Việt Nam năm 2019.

Để tổ chức thành công Diễn đàn, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan triển khai triển khai các công việc và gửi nội dung chuẩn bị về cơ quan thường trực tổ chức - Ban Kinh tế Trung ương trước ngày 10/1/2019.

Trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương, Văn phòng Chính phủ trong thường trực công tác sự kiện; chuẩn bị và trình bày báo cáo chính tại "Phiên toàn thể và Đối thoại chính sách cấp cao"; đồng chủ trì và có báo cáo chính tại Hội thảo chuyên đề 1 (Quản trị, huy động vốn và phát triển cơ sở hạ tầng hiệu quả: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam).

Bộ Công Thương chuẩn bị và trình bày báo cáo chính tại "Phiên toàn thể và Đối thoại chính sách cấp cao"; trình bày báo cáo chính và tham gia phiên thảo luận tại Hội thảo chuyên đề 2 (Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và củng cố an ninh năng lượng đảm bảo phát triển bền vững).

Bộ Thông tin và Truyền thông chuẩn bị và trình bày báo cáo chính tại "Phiên toàn thể và Đối thoại chính sách cấp cao"; tham gia phần thảo luận tại "Phiên toàn thể và Đối thoại chính sách cấp cao"; đồng chủ trì và có báo cáo chính tại Hội thảo chuyên đề 3 (Định hướng phát triển nền kinh tế số trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0: Cơ hội và thách thức cho Việt Nam).

Lập BCĐ Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số

Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II năm 2020 với Trưởng ban là Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình.

Phó Trưởng ban gồm: Ông Đỗ Văn Chiến, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc (Thường trực); ông Nguyễn Văn Tùng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ; bà Trần Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Nội vụ - Trưởng Ban Thi đua, Khen thưởng Trung ương.

Thành viên Ban Chỉ đạo gồm: Ông Lê Hoài Trung, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao; ông Trần Văn Hiếu, Thứ trưởng Bộ Tài chính; bà Trịnh Thị Thủy, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; ông Hoàng Vĩnh Bảo, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; ông Bùi Văn Nam, Thứ trưởng Bộ Công an; ông Nguyễn Văn Sửu, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội; ông Trần Thành Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; ông Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế; ông Nguyễn Hữu Độ, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; bà Hoàng Thị Hạnh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; ông Lê Hiền Vân, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngoài ra, mời đại diện lãnh đạo một số các cơ quan tham gia Ban Chỉ đạo.

Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp; chỉ đạo việc lập kế hoạch và triển khai tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II năm 2020.

Trưởng Ban Chỉ đạo thành lập Ban Tổ chức Đại hội toàn quốc; phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên Ban Chỉ đạo để chỉ đạo thực hiện Đề án tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số cấp huyện, cấp tỉnh lần thứ III năm 2019 và Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II năm 2020 đã được phê duyệt.

Ban Chỉ đạo tự giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

Ủy ban Dân tộc là cơ quan Thường trực giúp Ban Chỉ đạo, có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số cấp huyện, cấp tỉnh lần thứ III năm 2019; theo dõi, tổng hợp kết quả tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số cấp huyện, cấp tỉnh lần thứ III năm 2019 để báo cáo Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II năm 2020; chủ trì xây dựng và thực hiện kế hoạch tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II năm 2020; thực hiện các nhiệm vụ khác do Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Đại hội toàn quốc phân công.

Hòa Bình cần tập trung phát triển các lĩnh vực mũi nhọn

Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo 488/TB-VPCP về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Hòa Bình.

Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tỉnh Hòa Bình cần nỗ lực phấn đấu hoàn thành cao nhất các chỉ tiêu, kế hoạch đã đề ra trong năm 2019, tập trung vào 4 lĩnh vực mũi nhọn sau:

Thứ nhất, phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, nghỉ dưỡng gắn với gìn giữ và phát huy đặc sắc văn hóa của đồng bào dân tộc, xây dựng Hòa Bình thành tỉnh du lịch. Hoàn thiện hệ sinh thái du lịch, mỗi người dân là một sứ giả của du lịch.

Thứ hai, phát triển lâm nghiệp gắn với chế biến gỗ xuất khẩu, phát triển các nhà máy chế biến gỗ. Đây là tiềm năng phát triển rất lớn của Hòa Bình, góp phần từng bước đưa Việt Nam trở thành một trung tâm sản xuất đồ gỗ và nội thất của thế giới. Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chế biến nông sản. Mục tiêu của ngành nông nghiệp Hòa Bình trước hết là cung ứng cho Vùng thủ đô và sau đó hướng ra xuất khẩu.

Thứ ba, phát triển công nghiệp địa phương trong lĩnh vực giàu tiềm năng, cần hướng vào các ngành chế biến, chế tạo nhằm giải quyết việc làm gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp. Chỉ phát triển công nghiệp tại những khu vực được quy hoạch và trong các khu, cụm công nghiệp. Đặc biệt quan tâm tới vấn đề môi trường để không làm ảnh hưởng tới nguồn nước và ngành kinh tế mũi nhọn là du lịch.

Thứ tư, phát triển đô thị xanh, sinh thái, hiện đại gắn với cảnh quan thiên nhiên và bản sắc dân tộc. Thúc đẩy mạnh mẽ liên kết vùng, chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị để mở rộng khả năng tiếp cận thị trường (Khu Công nghệ cao Láng Hòa Lạc, đô thị Phù Cát, Miếu Môn, Đại học Quốc gia, Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam…).

Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu chính quyền phải đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Phát huy tính năng động, sáng tạo của lãnh đạo tỉnh, các sở, ban, ngành, các huyện trong giải quyết kiến nghị của người dân, doanh nghiệp, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, hấp dẫn các nhà đầu tư; tiếp tục làm tốt công tác xúc tiến, cung ứng dịch vụ hỗ trợ tốt nhất cho nhà đầu tư, thu hút các nhà đầu tư lớn tới địa phương.

Xây dựng Chiến lược phát triển KTXH giai đoạn 2021-2030

Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại cuộc họp về xây dựng Chiến lược 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch 05 năm 2021-2025 thuộc nhiệm vụ của Tiểu ban Kinh tế - xã hội.

Thủ tướng Chính phủ cơ bản nhất trí với dự kiến kế hoạch triển khai tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2011-2020 và xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030; lưu ý đến hai mốc thời gian quan trọng là: Thời điểm trình Đề cương chi tiết Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (tháng 5/2019); Thời điểm trình “Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030” tại Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (tháng 10/2019).

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu, Đề cương chi tiết “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030” phải có cơ cấu hợp lý, thể hiện rõ tinh thần đổi mới và những vấn đề cốt lõi của Chiến lược. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 phải thể hiện được ý chí dân tộc, có quyết tâm cao để làm cơ sở cho các Bộ, ngành và các địa phương chuẩn bị cho đại hội Đảng bộ các cấp với tinh thần vươn lên trong bối cảnh mới và yêu cầu mới.

Xác định những vấn đề trọng tâm cần phải tập trung tổ chức nghiên cứu sâu. Làm rõ về bối cảnh, tình hình (các xu hướng lớn trên phạm vi toàn cầu, khu vực…), về tư duy, quan điểm phát triển (làm rõ các mối quan hệ giữa kinh tế - xã hội - môi trường, giữa phát triển nhanh với phát triển bền vững; giữa phát triển toàn diện với tập trung mũi nhọn; giữa nhà nước và thị trường; giữa bảo đảm nền kinh tế tự chủ, tự cường với xu hướng mở cửa nền kinh tế, hội nhập quốc tế…). Xác định rõ các đột phá chiến lược trong giai đoạn tới; mục tiêu chiến lược với các thành tố và định hướng cụ thể về kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường sinh thái, xây dựng nhà nước, quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đối ngoại và hội nhập quốc tế và các vấn đề cụ thể khác.

Làm rõ các vấn đề trọng tâm của Chiến lược phát triển KTXH thời kỳ tới

Ban cán sự Đảng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tập trung huy động mọi nguồn lực, phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Chính phủ để tổ chức, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương, đồng thời huy động các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học, các chuyên gia, nhà khoa học nghiên cứu làm rõ các vấn đề trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ tới.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, nghiên cứu tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 trong các lĩnh vực phụ trách của ngành, địa phương mình làm rõ kết quả đạt được, những vấn đề còn hạn chế, khó khăn và nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm; nghiên cứu làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành, lĩnh vực được phụ trách; xác định rõ mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm cũng như những giải pháp đột phá trong thời kỳ chiến lược mới 2021-2030 với tầm nhìn dài hạn đến năm 2045. Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự thảo văn bản giao nhiệm vụ trình Thủ tướng Chính phủ. Kết quả nghiên cứu gửi về Tổ biên tập trước ngày 31/3/2019.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan thường trực Tiểu ban kinh tế - xã hội nghiên cứu xác định những nội dung, những vấn đề cần tổng kết, nghiên cứu sâu, hình thành hệ thống các chuyên đề nghiên cứu, báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Tiểu ban quyết định đặt hàng các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học nghiên cứu giải quyết làm cơ sở cho việc biên tập Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 theo nguyên tắc: một vấn đề có thể lựa chọn nhiều cơ quan, tổ chức nghiên cứu nhất là kịch bản tăng trưởng giai đoạn 2021-2030 và 2021-2025, và ngược lại một cơ quan, tổ chức có thể nghiên cứu nhiều vấn đề phù hợp với năng lực chuyên môn của mình.

Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Tiểu ban kinh tế - xã hội Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII yêu cầu các cấp, các ngành và các tổ chức và cá nhân liên quan khẩn trương triển khai các nhiệm vụ, bám sát kế hoạch công tác của Tổ Biên tập để xây dựng Chiến lược kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 với chất lượng cao và hiệu quả, chuẩn bị tốt cho Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII.

Phân công chuẩn bị phiên họp thứ 30 của UBTVQH

Thủ tướng Chính phủ phân công Bộ Trưởng Bộ Nội vụ chuẩn bị tài liệu phục vụ phiên họp thứ 30 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tổng Thư ký Quốc hội có văn bản số 2604/TTKQH-TH ngày 3/1/2019 về việc chuẩn bị tài liệu bổ sung nội dung xem xét, quyết định việc điều chỉnh địa giới hành chính 2 xã của huyện Hồng Ngự và thành lập thị trấn Thường Thới Tiền thuộc huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; việc nhập đơn vị hành chính cấp xã, thành lập 6 phường thuộc thị xã Chí Linh và thành lập thành phố Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương tại Phiên họp thứ 30 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Về việc này Thủ tướng Chính phủ có ý kiến như sau: Phân công Bộ trưởng Bộ Nội vụ, thay mặt Chính phủ, thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, chuẩn bị Tờ trình của Chính phủ về việc điều chỉnh hành chính 2 xã của huyện Hồng Ngự và thành lập thị trấn Thường Thới Tiền thuộc huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; việc nhập đơn vị hành chính cấp xã, thành lập 6 phường thuộc thị xã Chí Linh và thành lập thành phố Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 30.

Nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ sở hữu vốn nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập sau cổ phần

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu trường hợp Nhà nước giữ hoặc không giữ cổ phần tại đơn vị sự nghiệp công lập sau cổ phần hóa.

Sau khi xem xét đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và ý kiến một số Bộ về rà soát việc triển khai Quyết định số 31/2017/QĐ-TTg về tiêu chí, danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu trường hợp Nhà nước chỉ giữ 36% hoặc không giữ cổ phần tại đơn vị sự nghiệp công lập sau cổ phần hóa, trường hợp Nhà nước giữ 36% hoặc trên 50% vốn điều lệ thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Phó Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu, giải trình ý kiến của các Bộ liên quan, đồng thời lấy thêm ý kiến của Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Nội vụ để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 10/1/2019.

Trả lời chất vấn về chống thất thu, thất thoát ngân sách nhà nước

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã có văn bản trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội Đỗ Đức Hồng Hà, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội về thực trạng, nguyên nhân và giải pháp chống thất thu và chống thất thoát ngân sách nhà nước.

Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội Đỗ Đức Hồng Hà, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết: Năm 2018, nhiệm vụ tài chính – ngân sách nhà nước (NSNN) được triển khai trong bối cảnh tình hình kinh tế trong nước và ngoài nước khá tích cực. Chính phủ đã trình Quốc hội đánh giá tổng thu ngân sách năm 2018 vượt dự toán 3%; tỷ lệ huy động vào NSNN đạt 24,5% GDP, trong đó huy động từ thuế, phí đạt 20,7% GDP. Đây là kết quả tích cực trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế đánh giá đạt trên 6,7% (mục tiêu là 6,7%), tiếp tục cắt giảm sâu thuế quan theo các cam kết hội nhập… Tuy nhiên, xét ở các góc độ khác nhau, vẫn có những thách thức nhất định đối với thu NSNN: Tình trạng chuyển giá, trốn thuế, nợ thuế còn phức tạp, thời điểm ngày 31/12/2017 là 73,1 nghìn tỷ đồng và đến ngày 30/9/2018 xấp xỉ 83 nghìn tỷ đồng (tăng 9,8 nghìn tỷ đồng so với thời điểm ngày 31/12/2017).

Tuy nhiên, nếu tính theo tỷ trọng số nợ thuế trên tổng thu nội địa thì xu hướng là giảm (thời điểm ngày 31/12/2016 ở mức 8,7%; ngày 31/12/2017 là 7,6% và ngày 30/9/2018 là 7,5%). Nếu loại trừ số nợ thuế của người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự,… (bao gồm cả số nợ gốc và nợ tiền chậm nộp), hiện chiếm khoảng 35% tổng số tiền nợ thuế, thì tỷ lệ nợ thuế khoảng 4,4% tổng thu nội địa, là ngưỡng chấp nhận được theo thông lệ quốc tế (thấp hơn 5%).

Trong chỉ đạo điều hành, Chính phủ đã trình Quốc hội yêu cầu các địa phương phấn đấu tăng thu, giảm tối đa số địa phương hụt thu; trường hợp địa phương dự kiến hụt thu thì phải chủ động sắp xếp, giảm, giãn các nhiệm vụ chi, sử dụng các nguồn lực của địa phương để đảm bảo các nhiệm vụ chi, không điều chỉnh giảm dự toán. Đồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra, nhất là các địa bàn, lĩnh vực trọng điểm thu, các hoạt động kinh doanh qua mạng, nhà hàng, khách sạn, khu vực kinh tế phi chính thức, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI),… thu đúng, thu đủ các nguồn thu của NSNN; khẩn trương trình cấp có thẩm quyền việc sửa đổi Luật quản lý thuế, tạo thuận lợi hơn nữa cho người nộp thuế, song song với việc bao quát các nguồn thu mới, tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý thu và đánh giá thực chất số nợ thuế.

Xây dựng thể chế, tăng cường thanh tra, kiểm toán

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cũng cho biết, về công tác xây dựng thể chế, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành các Luật về: NSNN, Kiểm toán nhà nước, Thanh tra, Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,.. trong đó đặt ra các quy định tăng cường trách nhiệm của các ngành, các cấp và các đơn vị trong quản lý, sử dụng NSNN chặt chẽ, tiết kiệm. Đặc biệt, Luật NSNN năm 2015 đã có quy định mới về phạm vi thu, chi, bội chi; quy định cụ thể các điều kiện chi, các hành vi bị cấm; vấn đề công khai, minh bạch từ khâu phân bổ đến triển khai thực hiện; việc thanh tra, kiểm toán,… để vừa tạo thuận lợi trong thực hiện vừa tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng ngân sách.

Về tổ chức thực hiện: Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quán triệt yêu cầu tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong thu ngân sách, chống thất thu, giảm nợ đọng thuế; chi NSNN chặt chẽ theo dự toán, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng, quản lý ngân sách, tài sản công được giao.

Về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán: Quyết liệt và thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là trong quản lý, sử dụng NSNN, tài chính, tài sản công. Thời gian qua, việc triển khai thực hiện các kiến nghị của thanh tra, kiểm toán, xử lý trách nhiệm người đứng đầu đã được đẩy nhanh tiến độ; xử lý nghiêm các vụ việc, vụ án tham nhũng, thu hồi về NSNN tiền, tài sản bị tham nhũng, thất thoát.

Đẩy mạnh công tác phòng, chống AIDS, ma túy, mại dâm

Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản thông báo ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tại buổi họp thường trực Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm.

Công tác phòng, chống ma túy cai nghiện ma túy; phòng, chống HIV/AIDS, mại dâm thời gian qua luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo, có nhiều biện pháp đồng bộ, quyết liệt và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Tuy nhiên tình hình tội phạm ma túy, nghiện ma túy trên thế giới và trong nước đang điễn biến rất phức tạp, theo báo cáo của Bộ Công an, tỷ lệ người sử dụng ma túy tổng hợp đang gia tăng nhanh, nhất là ở các tỉnh phía nam, xuất hiện nhiều loại ma túy tổng hợp mới, nguy hiểm ở Việt Nam và trên thế giới chưa có biện pháp tối ưu để kiểm soát, dự phòng và điều trị.

Trong khi đó, trách nhiệm của một số Bộ, ngành, cơ quan, địa phương nhất là vai trò, trách nhiệm người đứng đầu chưa được đề cao. Một số địa phương chưa quan tâm đúng mức, có nơi còn buông lỏng, không chú trọng công tác này, nên đã để xảy ra việc người cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện ở một số địa phương phá cơ sở, bỏ trốn tập thể gây tâm lý hoang mang lo lắng trong nhân dân.

Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách còn chưa đồng bộ; một số văn bản hướng dẫn còn chậm. Nguồn lực chưa đáp ứng yêu cầu, chưa huy động được nhiều nguồn lực xã hội. Công tác tuyên truyền chưa phát huy hiệu quả trong nhóm đối tượng có nguy cơ cao; một bộ phận nhân dân, nhất là thanh, thiếu niên chưa nhận thức đầy đủ tác hại của ma túy đặc biệt là ma túy tổng hợp; ý thức chấp hành pháp luật về phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy còn hạn chế.

Để khắc phục những tồn tại trên, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam yêu cầu Bộ Công an trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 127/2009/QĐ-TTg ngày 26 tháng 10 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chế độ báo cáo thống kê về phòng, chống ma túy để thống nhất về biểu mẫu thống kê người sử dụng, người nghiện ma túy trên toàn quốc. Tiếp tục tăng cường việc kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy và tiền chất, tránh để các đối tượng lợi dụng sản xuất ma túy tổng hợp.

Bộ Y tế tiếp tục duy trì việc điều trị thay thế cho người nghiện ma túy bằng Methadone trên cả nước; nghiên cứu, tổ chức thí điểm việc sử dụng các bài thuốc cắt cơn, điều trị ma túy phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Xây dựng chiến lược quốc gia kết thúc đại dịch AIDS ở Việt Nam theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 12296/VPCP-KGVX ngày 18 tháng 12 năm 2018.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính rà soát việc bố trí, cấp, sử dụng kinh phí đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 để cải tạo, sửa chữa cơ sở vật chất, bổ sung trang thiết bị cho các cơ sở cai nghiện ma túy công lập tại 38 tỉnh, thành phố theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết số 124/NQ-CP ngày 06 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ.

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tăng cường công tác quản lý người sử dụng, người nghiện ma túy và cai nghiện ma túy trên địa bàn, bố trí kinh phí địa phương, sử dụng kinh phí đầu tư công trung hạn đúng mục đích trong việc cải tạo, sửa chữa nâng cấp cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc bảo đảm điều kiện sinh hoạt, học tập, lao động trị liệu cho người cai nghiện ma túy theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Bảo đảm không để xảy ra hiện tượng người cai nghiện ma túy phá cơ sở, bỏ trốn tập thể.

Hoàn thiện quy định về quản lý hoạt động đường thủy nội địa

Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng về việc ban hành Nghị định quy định về quản lý hoạt động giao thông đường thủy nội địa.

Phó Thủ tướng giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan tổ chức nghiên cứu, xem xét lại toàn bộ nội dung của dự thảo Nghị định để phù hợp với tên gọi của Nghị định đã được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 9/8/2017.

Đồng thời rà soát lại các quy định có liên quan đến trách nhiệm và quyền hạn của UBND cấp tỉnh và thẩm quyền của lực lượng Cảng vụ đường thủy nội địa (bao gồm Cảng vụ đường thủy nội địa trực thuộc Cục Đường thủy nội địa Việt Nam và Cảng vụ đường thủy nội địa trực thuộc Sở Giao thông vận tải) trong công tác quản lý hoạt động đường thủy nội địa, đảm bảo phù hợp với các quy định của Luật Giao thông đường thủy nội địa.

Trên cơ sở đó, Bộ Giao thông vận tải hoàn thiện lại dự thảo Nghị định quy định về quản lý hoạt động giao thông đường thủy nội địa, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Print
878 Rate this article:
No rating

Thư viện ảnh

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ - VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO - TỔNG CỤC THỂ DỤC THỂ THAO
Người chịu trách nhiệm chính: PGS.TS. Nguyễn Danh Hoàng Việt
Địa chỉ: 141 Nguyễn Thái Học - Ba Đình - Hà Nội * Điện thoại: (84-4) 733 0286 * FAX: (84-4) 733 4419
Website: vkhtdtt.vn; Email: banbientap.vkhtdtt@gmail.com

 

Close Copyright [2018] by TTTT
Back To Top