Responsive image

Chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 20/5

Thông tin báo chí chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 20/5

THÔNG TIN BÁO CHÍ

THÔNG TIN CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Thủ tướng gửi thư khích lệ các Bộ, ngành, địa phương quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ 2019

Thủ tướng Chính phủ vừa gửi thư tới các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy/Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Thư của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ, chúng ta đã đi qua gần nửa chặng đường của năm 2019, năm bứt phá thực hiện kế hoạch 5 năm 2016-2020 trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến rất nhanh, phức tạp; tăng trưởng kinh tế, thương mại toàn cầu dự báo sụt giảm; chiến tranh thương mại tiếp diễn khó lường; rủi ro tỷ giá, lãi suất và bất ổn trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng; giá dầu thô và một số hàng hóa cơ bản biến động mạnh; cạnh tranh ngày càng gay gắt trong khi nhiều quốc gia, đối tác lớn thay đổi, điều chỉnh chính sách đã và đang tác động, ảnh hưởng lớn trên nhiều mặt đến đất nước ta. Để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2019 như chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực phấn đấu hơn nữa trên tất cả các lĩnh vực, đổi mới tư duy hành động, cách làm, huy động sự vào cuộc và phát huy tinh thần đoàn kết, sức mạnh, ý chí vươn lên của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước để tập trung khắc phục tồn tại, hạn chế và vượt qua những khó khăn, thách thức rất lớn hiện nay, đưa đất nước ta vững bước đi lên trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã lựa chọn.

Thủ tướng Chính phủ trân trọng đề nghị các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy/Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trên cương vị, trọng trách của mình, động viên, khích lệ, phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và ý chí phấn đấu vươn lên của toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong từng Bộ, ngành, địa phương; trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo điều hành; chủ động, linh hoạt ứng phó với diễn biến tình hình quốc tế, trong nước; tập trung mọi nỗ lực để vượt qua khó khăn, thách thức; kiên định các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch đề ra; thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, đánh giá tình hình và kết quả thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; trong đó chú trọng một số nội dung trọng tâm sau:

1. Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng của từng Bộ, ngành, địa phương; chú trọng khắc phục những tồn tại, hạn chế, yếu kém và rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là đối với những ngành hàng, sản phẩm chủ đạo, mũi nhọn; thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất kinh doanh, dịch vụ; kiểm tra, xử lý, giải quyết tốt từng vấn đề cụ thể phát sinh; đẩy mạnh hơn nữa, tạo chuyển biến thực chất hơn nữa về từng chỉ số của môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh; nỗ lực cắt giảm chi phí, tạo mọi thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp; chủ động có chính sách, giải pháp phù hợp, hữu hiệu thúc đẩy phát triển mạnh hơn nữa các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế tạo động lực phát triển. 

2. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là những mặt hàng chủ lực; tập trung tháo gỡ khó khăn cho xuất khẩu nông sản; tổ chức tuyên truyền rộng rãi, tận dụng cơ hội, thực hiện hiệu quả Chương trình hành động triển khai các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký, đặc biệt là Hiệp định CPTPP; đồng thời, phát triển mạnh hệ thống bán lẻ, thị trường trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; quyết liệt phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại; trong đó có hàng giả gắn nhãn hàng Việt Nam, xử lý nghiêm, công khai các vi phạm, không để ảnh hưởng đến sản xuất trong nước và uy tín hàng Việt Nam.

3. Thực hiện quyết liệt nhiệm vụ đẩy nhanh tiến độ dự án, giải ngân vốn đầu tư công; quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân và người đứng đầu trong việc tháo gỡ vướng mắc về thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công, nhất là các công trình, dự án trọng điểm; công khai kết quả thực hiện. Đồng thời, từng Bộ, ngành, địa phương có kế hoạch, giải pháp cụ thể tạo thuận lợi thu hút, khơi thông các nguồn vốn ngoài nhà nước, khuyến khích mạnh mẽ đầu tư tư nhân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

4. Điều hành chủ động, linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với các chính sách khác, thực hiện nhất quán mục tiêu ưu tiên củng cố nền tảng vĩ mô, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, tạo nền tảng ổn định vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội; giữ vững ổn định thị trường ngoại tệ; bảo đảm tăng trưởng tín dụng hợp lý gắn với nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung cho các lĩnh vực ưu tiên; phấn đấu giảm chi phí sử dụng vốn, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; phát huy vai trò của tín dụng vi mô, xử lý triệt để nạn tín dụng đen.

5. Tăng cường quản lý thu ngân sách nhà nước, bảo đảm đạt và vượt kế hoạch thu ở tất cả các ngành, các cấp gắn với siết chặt kỷ luật tài chính - ngân sách nhà nước; chú trọng mở rộng cơ sở thuế, có chính sách ưu đãi thuế phù hợp đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa; thực hiện hiệu quả các biện pháp chống thất thu, chuyển giá, nợ đọng thuế, áp dụng rộng rãi hóa đơn điện tử, trước hết ở các thành phố lớn.

6. Huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, quyết liệt chỉ đạo, triển khai đồng bộ các biện pháp ngăn chặn, dập dịch tả lợn châu Phi; có biện pháp đồng bộ bảo đảm tái đàn, phát triển mạnh mẽ chăn nuôi gia súc, gia cầm đáp ứng kịp thời nhu cầu thực phẩm thị trường trong nước và xuất khẩu. Đồng thời, theo dõi sát diễn biến thời tiết, làm tốt công tác phân tích, dự báo nhu cầu thị trường, giá cả, rà soát chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, điều chỉnh quy mô cây trồng, vật nuôi phù hợp, bảo đảm phát triển hiệu quả, bền vững và ổn định, cải thiện thu nhập cho người dân.

Thủ tướng Chính phủ mong muốn và tin tưởng rằng, với sự quyết tâm, nhiệt huyết, luôn trăn trở trước những vấn đề mới của đất nước, của từng cấp, từng ngành và những khó khăn, vướng mắc mà người dân, doanh nghiệp đang mong chờ được xử lý, giải quyết, các đồng chí Lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương sẽ phát huy hơn nữa trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tập trung chỉ đạo các cấp ủy đảng, chính quyền huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, tăng cường phối hợp, chung sức đồng lòng; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật và sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2019 đã đề ra.

Thủ tướng chỉ thị về phát triển bền vững

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 20/5/2019 về phát triển bền vững.

Phát triển bền vững là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Chính phủ đã ban hành Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam (2004), Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (2012) và gần đây nhất là Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với 17 mục tiêu phát triển bền vững và 115 mục tiêu cụ thể đặt ra cho Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2030 trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường.

Quan điểm phát triển bền vững đã được lồng ghép xuyên suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2015 và 2016 - 2020. Đất nước đã đạt được các thành tựu về phát triển bền vững trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường như tốc độ tăng trưởng GDP, giảm nghèo bền vững, phổ cập giáo dục, tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe…

Tuy nhiên, nhận thức về phát triển bền vững của không ít cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và nhiều người dân còn chưa đầy đủ, thống nhất; các chính sách kinh tế - xã hội còn thiên về tăng trưởng nhanh kinh tế và ổn định xã hội, mà chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường…

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các bên liên quan tổ chức triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ được giao trong Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030.

Trong năm 2019, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng và ban hành Hướng dẫn lồng ghép các mục tiêu phát triển bền vững vào Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Hướng dẫn thực hiện giám sát, đánh giá các mục tiêu phát triển bền vững. Theo dõi, đánh giá, tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 và các mục tiêu phát triển bền vững trình Chính phủ, Quốc hội hằng năm.  

Lồng ghép các mục tiêu phát triển bền vững vào Kế hoạch phát triển KTXH

Thủ tướng chỉ thị các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gấp rút hoàn thành việc xây dựng Kế hoạch/Chương trình hành động thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ được giao trong Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 trong năm 2019. Lồng ghép hiệu quả việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững vào xây dựng và thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội tại các cấp, các ngành và địa phương. Triển khai kịp thời các chính sách hỗ trợ cho người nghèo, cận nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách xã hội và các đối tượng dễ bị tổn thương khác.

Hội đồng Quốc gia về Phát triển bền vững và Nâng cao năng lực cạnh tranh tham mưu, tư vấn giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng, thực hiện các chiến lược, chính sách, các kế hoạch, chương trình, nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện có hiệu quả Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Hằng năm, lựa chọn ít nhất một vấn đề cụ thể liên quan đến phát triển bền vững để tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về các cơ chế, chính sách, biện pháp chỉ đạo, điều hành.

Đề nghị Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của các đoàn thể tăng cường giám sát các cấp, các ngành trong việc triển khai thực hiện phát triển bền vững. Chú trọng phản biện các cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm các yêu cầu phát triển bền vững; vận động, giám sát việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững tại các bộ, ngành, địa phương. Tích cực huy động sự tham gia, đóng góp của các tổ chức trong nước và quốc tế, các đối tác phát triển, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.

Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện vai trò là cầu nối giữa nhà nước với các tổ chức xã hội, ghi nhận và phản ánh tiếng nói, mong muốn, nguyện vọng của các tổ chức xã hội và nhân dân đối với việc thực hiện phát triển bền vững cũng như các vấn đề lớn trong phát triển đất nước.

Hỗ trợ doanh nghiệp trong thực hiện phát triển bền vững

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Hội đồng doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD) tiếp tục phát huy vai trò định hướng, hỗ trợ doanh nghiệp trong thực hiện phát triển bền vững.

Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Hội đồng Quốc gia về Phát triển bền vững và Nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như các bộ, ngành, địa phương thực hiện các sáng kiến như: Tổ chức các diễn đàn đối thoại chính sách về phát triển bền vững; thực hiện chương trình đánh giá xếp hạng doanh nghiệp bền vững dựa trên bộ chỉ số doanh nghiệp bền vững CSI; huy động sự tham gia của doanh nghiệp trong việc thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh cũng như Diễn đàn cấp cao vì mục tiêu xanh toàn cầu 2030 (Diễn đàn P4G); triển khai sáng kiến về nền kinh tế tuần hoàn.

Tham mưu, tư vấn cho Chính phủ trong thực hiện các giải pháp giải quyết các thách thức trong các mô hình đối tác công tư (PPP) nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.

Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam chủ động tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn các doanh nghiệp hội viên tích cực hưởng ứng thực hiện thành công Kế hoạch hành động quốc gia Chương trình nghị sự 2030. Chủ động phối hợp với các bộ, ngành, các cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế để tranh thủ sự hỗ trợ về nguồn lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm hướng đến mục tiêu trong Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030.

Dịch tả lợn châu Phi: Không đợi đến khi có dịch mới phòng, chống

Ban chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống bệnh dịch tả lợn châu Phi, các Bộ, ngành, địa phương, Bí thư các huyện, xã, thôn và Chi bộ cần phải thay đổi cách thức chỉ đạo, điều hành công tác phòng chống dịch, “phòng là chính, cơ sở và người dân là chính”, phải chủ động, cụ thể và quyết liệt hơn nữa, không đợi đến khi có dịch mới triển khai công tác phòng, chống; không được chủ quan để gây thiệt hại quá lớn cho người chăn nuôi.

Đó là ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 4291/VPCP-NN về việc tiếp tục quyết liệt triển khai công tác phòng, chống bệnh Dịch tả lợn châu Phi.

Đây là bệnh dịch nguy hiểm, dự báo diễn biến phức tạp, khó lường và kéo dài, ảnh hưởng lớn đến phát triển chăn nuôi và cuộc sống của người dân. Do đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các cơ quan liên quan tiếp tục tập trung chỉ đạo, tổ chức triển khai quyết liệt, đồng bộ, căn bản hơn nữa các giải pháp phòng chống dịch theo chỉ đạo tại Nghị quyết số 16/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ, Chỉ thị số 04/CT-TTg ngày 20/2/2019 và Thông báo số 192/TB-VPCP ngày 17/5/2019 của Thủ tướng Chính phủ; các văn bản của của Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch bệnh Dịch tả lợn châu Phi (Ban Chỉ đạo quốc gia) và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Trong đó tập trung huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc; quán triệt phương châm “phòng, chống dịch như chống giặc”. Ban Cán sự Đảng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện dự thảo Chỉ thị, trình Ban Bí thư xem xét ban hành nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội và toàn hệ thống chính trị trong việc tổ chức triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp cấp bách khống chế bệnh Dịch tả lợn châu Phi.

Ban chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống bệnh dịch tả lợn châu Phi, các Bộ, ngành, địa phương, Bí thư các huyện, xã, thôn và Chi bộ cần phải thay đổi cách thức chỉ đạo, điều hành công tác phòng chống dịch, “phòng là chính, cơ sở và người dân là chính”, phải chủ động, cụ thể và quyết liệt hơn nữa, không đợi đến khi có dịch mới triển khai công tác phòng, chống; không được chủ quan để gây thiệt hại quá lớn cho người chăn nuôi.

Ban chỉ đạo Quốc gia phải có kế hoạch tổng thể về phòng, chống dịch tả lợn châu Phi và có kế hoạch cụ thể trong từng giai đoạn, từng khu vực; các địa phương từ tỉnh đến huyện, xã, thôn phải xây dựng kế hoạch phù hợp với tình hình cụ thể ở địa phương mình và cho từng giai đoạn. Các Thành viên của Ban chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống bệnh dịch tả lợn châu Phi trực tiếp làm trưởng Đoàn công tác đến từng tỉnh, thành phố để đôn đốc, chỉ đạo triển khai các biện pháp phòng, chống dịch.

Hỗ trợ người dân có lợn bị tiêu huỷ do nhiễm bệnh hoặc nghi nhiễm

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chỉ đạo, theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình dịch bệnh trên địa bàn, kịp thời rà soát, điều chỉnh, bổ sung và tổ chức thực hiện quyết liệt kế hoạch ứng phó bệnh Dịch tả lợn châu Phi, không để bùng phát dịch, ảnh hưởng lớn tới cuộc sống, môi trường và sức khỏe của người dân.

Chủ động bố trí kinh phí cho công tác phòng, chống dịch và hỗ trợ người dân có lợn bị tiêu huỷ do nhiễm bệnh hoặc nghi nhiễm bệnh dịch tả lợn châu Phi, bảo đảm công khai, minh bạch để người dân yên tâm thực hiện các biện pháp chống dịch; bố trí kinh phí trả thù lao phù hợp rõ ràng, chặt chẽ cho lực lượng tham gia phòng, chống dịch bệnh; phải có phương án cụ thể để tiêu hủy lợn bị bệnh phù hợp với các cấp độ xảy ra, huy động các lực lượng đủ mạnh tham gia hỗ trợ khi cần thiết.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách tổ chức chống dịch có hiệu quả hơn, sát thực tế và khả thi hơn; vừa bảo đảm chống dịch nhưng cũng tạo điều kiện cho phát triển chăn nuôi, giết mổ, tiêu thụ sản phẩm thịt lợn, đảm bảo chặt chẽ, khả thi, minh bạch.

Bên cạnh đó, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các địa phương đẩy mạnh tái cấu trúc ngành chăn nuôi, phải đa dạng hóa vật nuôi, trước mắt tập trung phát triển chăn nuôi đại gia súc, gia cầm, thủy sản... để bù đắp khi thiếu hụt sản phẩm thịt lợn nhằm phục vụ tốt đời sống người dân; xây dựng Đề án tái phát triển đàn lợn khi bệnh Dịch tả lợn Châu phi được khống chế.

Đồng thời, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học trong Đề án quốc gia nghiên cứu giải pháp phòng, chống bệnh Dịch tả lợn châu Phi, trong đó có nội dung nghiên cứu, chế tạo vắc-xin.

Tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống dịch bệnh. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Ngoại giao chủ động làm việc, đề nghị các tổ chức quốc tế và các nước xem xét, hỗ trợ Việt Nam trong công tác phòng, chống dịch bệnh; chủ động, kịp thời thông tin, báo cáo diễn biến tình hình dịch bệnh cho các tổ chức quốc tế theo quy định.

Khuyến khích thu mua lợn sạch trong vùng có dịch

Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan khuyến khích các cơ sở, doanh nghiệp thực hiện việc thu mua lợn sạch trong vùng có dịch để tiêu thụ và cấp trữ đông nhằm giảm thiểu lây lan dịch bệnh và thiệt hại cho người chăn nuôi nhằm giữ ổn định giá lợn không bị rơi xuống thấp trong giai đoạn trước mắt và có nguồn thực phẩm sạch cung cấp cho nhu cầu thị trường thời gian tới; không để sốt giá thịt lợn vào những tháng, quý tới nhất là vào các tháng cuối năm. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường nhằm ngăn chặn việc buôn bán, vận chuyển lợn, sản phẩm của lợn không rõ nguồn gốc, không bảo đảm các yêu cầu vệ sinh thú y và an toàn thực phẩm.

Trước hết là sử dụng ngân sách dự phòng của địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác. Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan đề xuất việc sử dụng nguồn vốn ngân sách để hỗ trợ phòng, chống bệnh dịch tả lợn châu Phi cho các cơ quan trung ương và địa phương; khẩn trương rà soát, điều chỉnh mức, cơ chế hỗ trợ cho người chăn nuôi, doanh nghiệp có lợn bị tiêu hủy do nhiễm bệnh hoặc nghi nhiễm bệnh và người tham gia phòng, chống dịch bệnh phù hợp với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống dịch.

Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng tiếp tục thông tin kịp thời, chính xác cho người dân về diễn biến tình hình bệnh Dịch tả lợn châu Phi và các biện pháp phòng chống dịch theo nguyên tắc vừa bảo đảm yêu cầu phòng, chống dịch bệnh, vừa bảo vệ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thịt lợn, tránh tâm lý chủ quan hoặc gây hoang mang, quay lưng với thịt lợn không bị bệnh.

Các Bộ, ngành có liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao chủ động chỉ đạo các cơ quan chức năng chuyên ngành phối hợp để triển khai thực hiện các biện pháp quyết liệt nhằm phòng, chống bệnh Dịch tả lợn châu Phi.

Thủ tướng Chính phủ phân công Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng trực tiếp chỉ đạo trong công tác phòng, chống bệnh Dịch tả lợn châu Phi.

 

Sửa đổi quy định về thanh tra, giám sát ngân hàng

Chính phủ ban hành Nghị định số 43/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2014/NĐ-CP ngày 7/4/2014 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng.

Theo Nghị định số 43/2019/NĐ-CP, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngoài quyền quy định trình tự, thủ tục thanh tra ngân hàng, giám sát ngân hàng còn được phân cấp thẩm quyền trong thực hiện hoạt động giám sát ngân hàng.

Nghị định số 43/2019/NĐ-CP cũng quy định rõ hơn về Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Cụ thể, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị tương đương Tổng cục, trực thuộc Ngân hàng Nhà nước, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền, bảo hiểm tiền gửi; tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; thực hiện phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật và phân công của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng gồm các Vụ, Cục, Văn phòng. Cục trưởng Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng được ra quyết định thanh tra, thành lập đoàn thanh tra đối với các đối tượng thanh tra ngân hàng được giao (trừ các cuộc thanh tra do Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng ra quyết định thanh tra, thành lập đoàn thanh tra, giám sát ngân hàng ra quyết định thanh tra, thành lập đoàn thanh tra theo quy định); thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra và xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

Theo Nghị định số 43/2019/NĐ-CP, Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh, giúp Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh quản lý nhà nước, tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra, giám sát ngân hàng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố đối với các đối tượng quản lý, thanh tra và giám sát ngân hàng trên địa bàn theo sự phân công, phân cấp, ủy quyền của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và theo quy định của pháp luật. Riêng Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị tương đương Chi cục thuộc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh thành phố Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.

Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh và sự chỉ đạo, hướng dẫn của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hành về công tác, nghiệp vụ thanh tra, giám sát ngân hàng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố.

Ngoài ra, Nghị định số 43/2019/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng; thẩm quyền ra quyết định thanh tra và thanh tra lại...

Thay đổi thành viên UBQG phòng, chống AIDS, ma túy, mại dâm

Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định ông Nguyễn Văn Trung, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm thành viên Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn may túy, mại dâm, thay ông Nguyễn Thế Phương.

Phê chuẩn Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp

Thủ tướng Chính phủ vừa phê chuẩn kết quả bầu bổ sung, miễn nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Cụ thể, tại Quyết định 576/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu bổ sung chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, nhiệm kỳ 2016 - 2021 đối với ông Phạm Thiện Nghĩa, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy.

Tại Quyết định 575/QĐ-TTg, Thủ tướng phê chuẩn kết quả miễn nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, nhiệm kỳ 2016 - 2021 đối với ông Châu Hồng Phúc, để nhận nhiệm vụ mới.

Vận động nguồn lực hỗ trợ trẻ em các xã đặc biệt khó khăn miền núi

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án vận động nguồn lực xã hội hỗ trợ trẻ em các xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2019 - 2025.

Mục tiêu của Đề án là vận động các nguồn lực xã hội để hỗ trợ trẻ em các xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi nhằm cải thiện tình trạng sức khỏe, dinh dưỡng của trẻ em thông qua khám chữa bệnh, hỗ trợ bữa ăn dinh dưỡng cho trẻ em lứa tuổi mầm non, tiểu học; hỗ trợ trẻ em được tham gia hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí; hỗ trợ đồ ấm cho trẻ em.

Các hoạt động chủ yếu của Đề án là tăng cường công tác truyền thông, vận động các cơ quan, đơn vị, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và mọi tầng lớp nhân dân đóng góp nguồn lực cho việc thực hiện Đề án. Vận động, hình thành mạng lưới các nhà tài trợ, các tổ chức trong nước và quốc tế hỗ trợ thực hiện Đề án. Thường xuyên cung cấp cho các nhà tài trợ kế hoạch, nhu cầu cần hỗ trợ của các địa phương.

Đồng thời điều phối việc hỗ trợ cho trẻ em các xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi về khám chữa bệnh, dinh dưỡng cho trẻ em lứa tuổi mầm non, tiểu học; vui chơi, giải trí cho trẻ em; đồ ấm cho trẻ em phù hợp theo độ tuổi.

Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong việc vận động nguồn lực hỗ trợ trẻ em các xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Cụ thể, hàng năm, xây dựng kế hoạch vận động nguồn lực. Điều phối, vận động và lồng ghép, sử dụng các nguồn lực một cách công khai, minh bạch, tránh chồng chéo, trùng lặp giữa các bộ, ngành, các cấp. Đa dạng hóa nguồn lực, phương thức hỗ trợ phù hợp với yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân tài trợ. Tiếp nhận, phân phối và triển khai các hoạt động hỗ trợ đúng quy định của pháp luật, bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng các sản phẩm hỗ trợ đáp ứng nhu cầu của các địa phương và đối tượng hưởng lợi.

Kịp thời động viên, biểu dương, khen thưởng các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia đóng góp, vận động nguồn lực thực hiện Đề án.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan chủ trì triển khai vận động các nguồn lực để thực hiện Đề án có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan hướng dẫn triển khai thực hiện Đề án. Hướng dẫn các địa phương đánh giá nhu cầu của trẻ em; điều phối việc vận động nguồn lực và triển khai hỗ trợ trẻ em.

Điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Vũng Tàu

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Vũng Tàu đến năm 2035.

Phạm vi lập quy hoạch gồm toàn bộ phạm vi hành chính thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, với tổng diện tích khoảng 15.043 ha.

Dự báo đến năm 2025, dân số thành phố Vũng Tàu khoảng 500.000 - 520.000 người; đến năm 2035, dân số thành phố Vũng Tàu khoảng 620.000 - 650.000 người.

Không gian thành phố Vũng Tàu được chia thành 7 khu vực

Thành phố Vũng Tàu phát triển theo mô hình tuyến dọc hướng Đông Bắc - Tây Nam và 2 trung tâm tại Gò Găng và Long Sơn, với các chức năng chính gồm: Công nghiệp - Đô thị - Du lịch. Hệ thống mặt nước, hồ cảnh quan điều hòa như Á Châu, Bàu Sen, Bàu Trũng, Rạch Bà, Cửa Lấp; các lưu vực sông Cỏ May, sông Dinh, sông Cửa Lấp, sông Ba Cội,... hệ sinh thái rừng ngập mặn và cảnh quan Núi Lớn, Núi Nhỏ, Núi Nứa là bộ khung tự nhiên của đô thị.

Không gian thành phố Vũng Tàu được chia thành 07 khu vực: Khu vực đảo Long Sơn; khu vực Gò Găng; khu vực Bắc Phước Thắng; khu vực Công nghiệp - Cảng; khu vực đô thị hiện hữu; khu vực Bắc Vũng Tàu (phía Bắc đô thị hiện hữu); khu vực phát triển du lịch ven biển Chí Linh - Cửa Lấp.

Trong đó, khu vực đảo Long Sơn là trung tâm công nghiệp dầu khí quốc gia. Phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp khác; hình thành khu đô thị mới phục vụ công nghiệp dầu khí và khu đô thị sinh thái mật độ thấp, đáp ứng nhu cầu ở đô thị. Cải tạo chỉnh trang khu dân cư hiện hữu và bảo tồn hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên vùng ngập mặn. Tổng diện tích đất khoảng 4.100 ha, trong đó đất xây dựng đô thị khoảng 2.670 ha. Quy mô dân số tối đa khoảng 45.000 người.

Khu vực đô thị hiện hữu tập trung cải tạo, chỉnh trang và tái thiết đô thị theo hướng bảo tồn cấu trúc không gian đô thị truyền thống, bảo tồn công trình kiến trúc, cảnh quan và hệ sinh thái có giá trị. Khai thác hiệu quả các quỹ đất công sở sau khi di dời, ưu tiên quỹ đất sau di dời cho các chức năng công cộng, cây xanh và hỗn hợp (văn phòng, thương mại, du lịch và nhà ở).

Khu vực Núi Lớn, Núi Nhỏ duy trì các khu công viên rừng kết hợp du lịch, vui chơi giải trí, tạo điểm nhấn cảnh quan trong thành phố. Tăng cường khả năng tiếp cận của cộng đồng tới các hoạt động vui chơi, giải trí, các không gian xanh trên núi. Tại khu vực Bãi Sau, duy trì quỹ đất du lịch hiện hữu, ưu tiên phát triển hỗn hợp với các loại hình dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng, thương mại, nhà ở và các công trình dịch vụ đô thị, đảm bảo xây dựng hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật đồng bộ để đáp ứng nhu cầu du lịch và nâng cao chất lượng sống của người dân. Đối với khu dân cư hiện hữu, hạn chế gia tăng dân số; khai thác, phát triển dịch vụ du lịch.

Tại khu vực cù lao Bến Đình, cải tạo, chỉnh trang khu dân cư hiện hữu; hình thành khu đô thị mới hiện đại với chức năng hỗn hợp gồm nhà ở - dịch vụ thương mại - văn phòng và đảm bảo hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật trong khu dân cư.

Tổng diện tích đất toàn khu vực khoảng 2.074 ha, trong đó đất xây dựng đô thị khoảng 1.716 ha. Quy mô dân số tối đa khoảng 240.000 người.

Định hướng tổ chức hệ thống trung tâm

Về định hướng tổ chức hệ thống trung tâm, Trung tâm khu đô thị hiện hữu được giữ nguyên vị trí và quy mô. Việc sử dụng quỹ đất sau khi di dời các công sở được ưu tiên để xây dựng, phát triển các công trình hạ tầng xã hội, công viên cây xanh đô thị và sử dụng hỗn hợp (văn phòng, thương mại, nhà ở), đảm bảo cân bằng nhu cầu về hạ tầng xã hội, kỹ thuật và môi trường đô thị.

Với Trung tâm đô thị phát triển mới, xây dựng mới khu trung tâm hành chính thành phố tại khu vực Bắc Vũng Tàu, giáp đường 2/9, quy mô 14 ha theo hướng tập trung và hiện đại. Phát triển trung tâm thương mại, tài chính, ngân hàng, văn phòng, giải trí kết hợp khu đô thị tại khu vực sân bay hiện hữu, quy mô 170 - 180 ha.

Hình thành mạng lưới trung tâm thương mại dịch vụ hỗn hợp và công cộng cấp đô thị tại khu trung tâm đô thị hiện hữu, trung tâm các khu vực phát triển mới trên dọc tuyến đường 3/2 và 2/9. Các trung tâm thương mại dịch vụ cấp khu vực bố trí dọc theo các tuyến đường chính và trung tâm các khu đô thị. Cải tạo, nâng cấp và phát triển chợ truyền thống tại các khu dân cư hiện hữu.

Xây dựng khu trung tâm giáo dục - đào tạo tại khu vực phát triển đô thị phía Bắc thành phố, trên các tuyến đường 3/2 và đường 2/9; quy mô diện tích khoảng 30 - 32 ha. Nâng cấp cải tạo và xây dựng mới các trường trung học phổ thông đáp ứng nhu cầu các khu vực dân cư theo tiêu chuẩn.

Xây dựng các trung tâm y tế cấp đô thị gồm: Bệnh viện đa khoa quy mô 350 - 500 giường tại phường 11 quy mô khoảng 8 ha; bệnh viện quốc tế tại khu vực Gò Găng khoảng 10 ha; các trung tâm điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe, các trung tâm y tế chăm sóc sức khỏe chuyên ngành kết hợp dịch vụ nghỉ dưỡng, du lịch khám chữa bệnh.

Xây dựng các công viên cây xanh đô thị với quy mô khoảng 450 - 500 ha, gắn kết với các hồ và kênh, rạch tự nhiên, tạo thành mạng lưới không gian xanh, hồ điều hòa trong đô thị gồm: Bàu Sen 30 ha, Bàu Trũng 45 ha, Công viên trung tâm tài chính thương mại 21 ha, Rạch Bà 20 ha, Công viên Hồ Mặt trời 33 ha, Công viên trung tâm Phước Thắng (Cầu Cháy) 30 ha, Công viên Núi Nứa 24 ha, Công viên Hồ Mang Cá 40 ha, Công viên Long Sơn 30 ha, Công viên Bắc sân bay Gò Găng 62 ha, Công viên trung tâm Gò Găng 46 ha, Công viên Núi Lớn khoảng 30 ha, Công viên Núi Nhỏ khoảng 50 ha. Ngoài ra, duy trì hệ thống cây xanh sinh thái tự nhiên tại các khu vực rừng ngập mặn, trên Núi Lớn, Núi Nhỏ, Núi Nứa và tại khu vực ven biển.

Nâng cao năng lực cán bộ, công chức, viên chức các trường chính trị

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giai đoạn 2019 - 2030 (Đề án).

Mục tiêu chung của Đề án là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Học viện và các trường chính trị cấp tỉnh đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp mẫu mực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có năng lực sư phạm, phong cách làm việc khoa học, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hội nhập quốc tế.

Mục tiêu cụ thể, giai đoạn đến năm 2025, đội ngũ giảng viên có cơ cấu 4 độ tuổi, bảo đảm sự kế thừa liên tục: Dưới 40 tuổi chiếm 15%, từ 40 - 50 tuổi chiếm 35 - 40%, từ 50 - 60 tuổi chiếm 35 - 40%, trên 60 tuổi chiếm 5 - 10%.

Giai đoạn đến năm 2030, giảng viên chiếm tỷ lệ tối thiểu 65% công chức, viên chức trong từng đơn vị trực thuộc Học viện và mỗi trường chính trị cấp tỉnh; tối thiểu 70% trở lên giảng viên được chuẩn hóa, có trình độ chuyên môn phù hợp với chức danh, vị trí việc làm. Tối thiểu 50% cán bộ khoa học dưới 40 tuổi sử dụng trực tiếp ngoại ngữ (tiếng Anh) trong nghiên cứu, giảng dạy; đủ giảng viên thành thạo tiếng Lào trực tiếp dịch, tham gia đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học. Mỗi trường chính trị cấp tỉnh có 5 tiến sỹ trở lên, 70% giảng viên có trình độ thạc sỹ trở lên.

Đến năm 2030, 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý được trang bị kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý tiên tiến; có khả năng tổ chức, quản lý, điều hành hiệu quả các hoạt động của Học viện, trường chính trị cấp tỉnh, nhất là quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học.

Giải pháp để thực hiện Đề án là khảo sát, xây dựng bộ cơ sở dữ liệu về năng lực, trình độ, kỹ năng, phương pháp nghiên cứu và giảng dạy của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Học viện và các trường chính trị cấp tỉnh; xây dựng, hoàn thiện các quy định, quy chế về công tác cán bộ; xây dựng, ban hành kế hoạch sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế với lộ trình, giải pháp cụ thể và tổ chức thực hiện. Thực hiện hiệu quả công tác đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Bên cạnh đó, thực hiện tuyển dụng, bổ sung kịp thời đội ngũ cán bộ, giảng viên, ưu tiên đối tượng trẻ, tài năng, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; xây dựng nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng hiện đại đối với công chức, viên chức, phù hợp với từng nhóm đối tượng; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài; tăng cường công tác luân chuyển, biệt phái và đi thực tế; tổ chức tổng kết và tham gia tổng kết thực tiễn theo chuyên đề;...

Chủ trương đầu tư tuyến cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt chủ trương đầu tư dự án Đầu tư xây dựng tuyến cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu (tỉnh Sơn La) theo hình thức đối tác công tư.

Mục tiêu đầu tư dự án nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải kết nối trung tâm kinh tế, chính trị với các tỉnh Tây Bắc, các khu kinh tế, khu du lịch quốc gia, khu công nghiệp, phục vụ cho mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh, góp phần tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; kết nối các khu vực lân cận và dọc tuyến để tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cho các khu vực này, đặc biệt là sự phát triển Khu du lịch quốc gia hồ Hòa Bình và Khu du lịch quốc gia Mộc Châu khi điều kiện về kết nối giao thông thuận lợi và các Dự án khác được đầu tư trong khu vực này; kết nối với các khu vực chính của tỉnh Hòa Bình và tỉnh Sơn La, thay đổi tình trạng Quốc lộ 6 là đường độc đạo.

Tuyến đường có tổng chiều dài toàn tuyến khoảng 85 km, trong đó trên địa phận tỉnh Hòa Bình khoảng 49 km (đi qua thành phố Hòa Bình, huyện Đà Bắc) và trên địa phận tỉnh Sơn La khoảng 36 km (đi qua huyện Vân Hồ, huyện Mộc Châu). Điểm đầu tại nút giao Quốc lộ 6 tại Km66+700 thuộc địa phận xã Trung Minh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình (tiếp nối với dự án cao tốc Hòa Lạc - Hòa Bình); điểm cuối tại nút giao với Quốc lộ 43 thuộc địa phận bản Muống, xã Phiêng Luông, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

Theo Kế hoạch, giai đoạn 1 sẽ đầu tư quy mô nền đường 17 m, mặt đường rộng 14 m với 4 làn xe (4 x 3,5 m), lề gia cố rộng 0,5 m (2 x 0,25 m), dải phân cách và an toàn rộng 1,5 m (0,5 m + 2 x 0,5 m), lề đất rộng 1,0 m (2 x 0,5 m), làn dừng xe khẩn cấp không liên tục.

Giai đoạn hoàn thiện bề rộng nền đường 22 m, mặt đường rộng 14 m với 4 làn xe (4 x 3,5 m), lề gia cố rộng 5 m để làm 2 làn dừng xe khẩn cấp (2 x 2,5 m), dải phân cách và an toàn rộng 1,5 m (0,5 m + 2 x 0,5 m), lề đất rộng 1,5 m (2 x 0,75 m).

Loại đường ô tô theo tiêu chuẩn đường cao tốc (TCVN5729-2012). Tốc độ thiết kế Vtk = 80 km/h, đối với các đoạn qua địa hình khó khăn cho phép thiết kế với vận tốc Vtk = 60 km/h.

Tổng mức đầu tư dự án (Giai đoạn I) khoảng 22.294 tỷ đồng.

Thành phố Hải Dương mở rộng đạt đô thị loại I

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa quyết định công nhận thành phố Hải Dương mở rộng đạt tiêu chí đô thị loại I trực thuộc tỉnh Hải Dương.

Đảm bảo cung cấp nước sinh hoạt đến từng hộ dân ở vùng núi cao

Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng về việc giãn tiến độ thực hiện Chương trình điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất để cung cấp nước sinh hoạt ở các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước.

Thông báo kết luận nêu rõ, Chương trình điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất để cung cấp nước sinh hoạt ở các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 264/QĐ-TTg ngày 2/3/2015 với mục tiêu tìm kiếm nguồn nước dưới đất có trữ lượng đủ lớn tại các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước để cung cấp nước sinh hoạt cho người dân là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trọng việc ổn định an sinh kinh tế, dân cư, tạo điều kiện nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Khoa học và Công nghệ cần phối hợp với các địa phương liên quan, triển khai đồng bộ các hạng mục của Chương trình nhằm mang lại hiệu quả cao nhất, đảm bảo cung cấp nước sinh hoạt đến từng hộ dân ở các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước.

Để Chương trình tiếp tục phát huy hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân các vùng khó khăn, vùng khan hiếm nước, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Khoa học và Công nghệ, Xây dựng, Tài chính và các cơ quan liên quan rà soát, hoàn thiện hồ sơ đề nghị điều chỉnh Quyết định số 264/QĐ-TTg ngày 2/3/2015 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét trước ngày 1/7/2019.

Trong đó, tập trung đánh giá toàn diện kết quả thực hiện Chương trình kể từ khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đến nay, làm rõ các tồn tại, bất cập, nguyên nhân chủ yếu và trách nhiệm của các cơ quan liên quan, đặc biệt vai trò của địa phương.

Xác định rõ vai trò quan trọng của Chương trình, mục tiêu, phạm vi, nhiệm vụ và các dự án thành phần, nguồn lực và phân công tổ chức thực hiện; kiên quyết loại bỏ các hoạt động không thực sự cần thiết, trùng lắp với các chương trình, dự án khác, không còn phù hợp; nghiên cứu, huy động bổ sung nguồn lực hợp pháp khác cho thực hiện Chương trình, bao gồm cả xem xét việc lồng ghép Chương trình với các chương trình, dự án hiện có.

Điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung thủ đô Hà Nội

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa có ý kiến về việc điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội.

Theo đó, về việc điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ đã giao UBND thành phố Hà Nội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu quy hoạch các khu đô thị hiện đại, có hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ trong các khu vực: Đông Anh, Gia Lâm, Yên Viên và Long Biên, hạn chế tối đa việc xây dựng các công trình thấp tầng, góp phần giảm tải khu vực nội đô lịch sử.

UBND thành phố Hà Nội báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội - Khu vực xây dựng Trung tâm Hội chợ triển lãm quốc gia tại huyện Đông Anh.

Phó Thủ tướng giao UBND thành phố Hà Nội thống nhất với Bộ Xây dựng báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án điều chỉnh một phần quỹ đất trên địa bàn huyện Gia Lâm để xây dựng các khu đô thị hiện đại, công viên chuyên đề, công viên giải trí và các khu công viên cây xanh; tạo ra khu đô thị hấp dẫn, thu hút người dân, góp phần giảm tải dân số khu vực nội đô lịch sử, đảm bảo quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật quy hoạch đô thị và yêu cầu phát triển bền vững.

 

 

Print
1267 Rate this article:
No rating

Please login or register to post comments.

Close Copyright [2018] by TTTT
Back To Top