Chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 09/4 09 Tháng Tư 2020 Thông tin báo chí chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 09/4 THÔNG TIN BÁO CHÍ THÔNG TIN CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 Trong thời gian tới, dịch bệnh COVID-19 dự báo còn diễn biến phức tạp, khó lường và tiếp tục ảnh hưởng bất lợi đến phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Quan điểm chỉ đạo, điều hành của Chính phủ luôn coi sức khỏe, tính mạng của người dân là ưu tiên hàng đầu, quyết tâm ngăn chặn, kiểm soát không để dịch bệnh COVID-19 bùng phát; bảo đảm an sinh xã hội, nhu cầu sống tối thiểu của người dân, nhất là người nghèo, người yếu thế. Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3. Nghị quyết nêu rõ, về tình hình dịch COVID-19; tình hình kinh tế - xã hội tháng 3 và quý I năm 2020; tình hình thực hiện Chỉ thị số 11/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ thống nhất đánh giá: Thời gian qua, các ngành, các cấp, các địa phương và cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước đã đoàn kết, thống nhất, nỗ lực thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, giải pháp của Đảng, Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và đã đạt được thành công bước đầu, vừa ngăn chặn, kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh, vừa thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhân dân đồng tình, tin tưởng. Chính phủ đánh giá cao, biểu dương tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, chung tay ủng hộ của nhiều doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân, Nhân dân cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài, thể hiện rõ tinh thần, bản lĩnh Việt Nam, đặc biệt là sự cống hiến, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm, hy sinh quên mình của ngành y tế, các lực lượng quân đội, công an trên tuyến đầu phòng, chống dịch COVID-19. Do đại dịch COVID-19 tác động tiêu cực tới nhiều mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, tăng trưởng kinh tế (GDP) quý I năm 2020 đạt 3,82%, mức tăng thấp nhất 10 năm qua, nhưng so với các nước trong khu vực và trên thế giới đây là mức tăng trưởng khá, thể hiện sự nỗ lực, quyết tâm cao của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước. Kinh tế vĩ mô giữ ổn định; lạm phát được kiểm soát;... Trong thời gian tới, dịch bệnh COVID-19 dự báo còn diễn biến phức tạp, khó lường và tiếp tục ảnh hưởng bất lợi đến phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Quan điểm chỉ đạo, điều hành của Chính phủ luôn coi sức khỏe, tính mạng của người dân là ưu tiên hàng đầu, quyết tâm ngăn chặn, kiểm soát không để dịch bệnh COVID-19 bùng phát; bảo đảm an sinh xã hội, nhu cầu sống tối thiểu của người dân, nhất là người nghèo, người yếu thế, người mất việc làm; tiếp tục kiên trì, nhất quán giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đồng thời tận dụng thời cơ, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện để phục hồi, bứt phá ngay sau khi dịch bệnh được khống chế. Chính phủ yêu cầu các ngành, các cấp, các địa phương thực hiện nghiêm Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và các chủ trương, biện pháp phòng, chống dịch COVID-19, nhất là các Chỉ thị số: 15/CT-TTg ngày 27/3/2020, 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ và chỉ đạo của Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19; đồng thời khẩn trương thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội nêu tại Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 4/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ. Tập trung thực hiện một số nội dung trọng tâm sau: Các bộ, cơ quan quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô và các bộ quản lý ngành, lĩnh vực tiếp tục nắm chắc tình hình, chủ động phương án, kịch bản điều hành, kiểm soát chặt chẽ lạm phát theo mục tiêu đề ra, kiên quyết giảm giá thịt lợn, miễn giảm chi phí thủ tục hành chính để chia sẻ với người dân và doanh nghiệp, không tăng giá hàng hóa, dịch vụ thiết yếu. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính gắn với ứng dụng công nghệ thông tin; tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công và vốn ODA, nhất là đối với các dự án trọng điểm, quy mô lớn. Kiên quyết cắt giảm, điều chuyển vốn đầu tư của các dự án giải ngân chậm; xử lý nghiêm các trường hợp làm chậm, thiếu trách nhiệm, vi phạm quy định. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ; chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 11/CT-TTg, phấn đấu tiếp tục giảm lãi suất cho vay; bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với nhu cầu vốn của nền kinh tế, trong đó tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và các đối tượng chính sách, ưu tiên; đảm bảo thanh khoản cho nhu cầu tín dụng và thanh toán của người dân, doanh nghiệp; duy trì hoạt động giao dịch ngân hàng an toàn, thông suốt. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương khẩn trương xây dựng các kịch bản phù hợp với diễn biến tình hình, có giải pháp ứng phó kịp thời, nhất là những giải pháp đột phá khi dịch bệnh được ngăn chặn; sớm trình Chính phủ dự thảo Nghị quyết về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm trật tự an toàn xã hội ứng phó dịch COVID-19. Chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất gói hỗ trợ tổng thể, trong đó bổ sung vốn đầu tư cho các dự án thiếu vốn, đầu tư cho các công trình xã hội, nhất là nhà ở xã hội. Khẩn trương thẩm định chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 theo quy định của pháp luật về đầu tư công, hoàn thành trước ngày 15/4/2020; trên cơ sở đó, Ủy ban Dân tộc khẩn trương tiếp thu, hoàn thiện hồ sơ Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, trình Chính phủ theo quy định. Khẩn trương trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách giãn, hoãn thuế, phí Bộ Tài chính khẩn trương trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách giãn, hoãn, miễn, giảm các loại thuế, phí, lệ phí; đẩy mạnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí, đặc biệt chi thường xuyên, không bố trí chi cho các nhiệm vụ chưa thực sự cấp thiết, hạn chế chi tổ chức hội nghị, hội thảo, đi công tác nước ngoài; quản lý chặt chẽ dự phòng ngân sách nhà nước, ưu tiên cho công tác phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm đủ kinh phí phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19. Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương xem xét các khoản vay cho cân đối ngân sách từ các tổ chức tài chính quốc tế, đáp ứng nhu cầu đầu tư, phòng, chống dịch bệnh và bảo đảm an sinh xã hội. Chủ trì, phối hợp Ban Chỉ đạo 389 quốc gia và các lực lượng chức năng tăng cường kiểm tra, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, nhất là đối với những mặt hàng phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Bộ Công Thương chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên quan tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc sớm đưa vào vận hành các dự án, công trình công nghiệp quy mô lớn; phối hợp với Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp tập trung khẩn trương xử lý các tồn tại 12 dự án yếu kém của ngành Công Thương theo Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và phân công nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo của Chính phủ. Tập trung khai thác, thúc đẩy thị trường trong nước, phát triển hệ thống phân phối bán lẻ; tiếp tục triển khai mạnh mẽ Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam và chương trình Hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam; phối hợp với các địa phương có phương án bảo đảm nhu yếu phẩm, hàng hóa phục vụ Nhân dân. Bên cạnh đó, chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính và các bộ, cơ quan liên quan đánh giá đầy đủ hiện trạng và dự báo cung cầu gạo để có phương án bảo đảm lương thực cho xuất khẩu, tiêu dùng và dự trữ. Duy trì các thị trường xuất khẩu truyền thống, đồng thời tìm kiếm mở rộng các thị trường mới, chuẩn bị các điều kiện để tranh thủ cơ hội thúc đẩy xuất khẩu từ Hiệp định EVFTA ngay sau khi dịch COVID-19 được ngăn chặn. Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan triển khai thực hiện việc giảm giá điện, giảm tiền điện cho các khách hàng sử dụng điện để tháo gỡ khó khăn trong bối cảnh tác động của dịch COVID-19 theo đề xuất của Bộ Công Thương. Thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm an ninh lương thực Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm an ninh lương thực. Chủ động có giải pháp kịp thời khôi phục, phát triển sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản; theo dõi tình hình thời tiết, hạn hán, xâm nhập mặn để kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương có phương án sản xuất phù hợp; tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng, chống dịch bệnh trên vật nuôi, cây trồng, chủ động phương án phòng, chống nạn châu chấu sa mạc. Tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan có các giải pháp đồng bộ để bình ổn giá thịt lợn, đẩy mạnh tái đàn đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu phù hợp; sớm gỡ thẻ vàng của EU đối với thủy sản. Khẩn trương hoàn thiện các văn bản quy định chi tiết Luật Lâm nghiệp; tăng cường chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ rừng, phòng, chống cháy rừng, đặc biệt là khu vực Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp kịp thời nắm bắt những khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ và tạo điều kiện tốt nhất cho các tập đoàn, tổng công ty phát triển sản xuất, kinh doanh, thực hiện kế hoạch 2020 đã đề ra. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Tài chính và các địa phương tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm công khai, minh bạch, đúng đối tượng thụ hưởng, có giải pháp phòng ngừa trục lợi chính sách. Đẩy mạnh hình thức dạy học qua truyền hình và Internet Bộ Giáo dục và Đào tạo đẩy mạnh hình thức dạy học qua truyền hình và Internet, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong dạy và học; khẩn trương báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án thi trung học phổ thông quốc gia và tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2020 phù hợp với tình hình thực tế. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Ngoại giao và các bộ, cơ quan liên quan khảo sát, đánh giá toàn diện nguyên nhân hạn hán, xâm nhập mặn khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đề xuất giải pháp đồng bộ, hiệu quả, khả thi, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Bộ Giao thông vận tải tích cực chủ động đẩy nhanh tiến độ triển khai đầu tư xây dựng các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm, nhất là một số dự án cấp bách như dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông; Mỹ Thuận - Cần Thơ; đẩy nhanh tiến độ hoàn thành việc triển khai hệ thống thu phí tự động không dừng. Các bộ, ngành rà soát lại các thỏa thuận song phương, triển khai ký kết bằng hình thức trực tuyến để thúc đẩy triển khai sớm, không để ngừng trệ; theo phân công tổ chức họp các cấp bằng hình thức trực tuyến để tiến tới Hội nghị cấp cao ASEAN trong tháng 6 năm 2020 và cuối năm 2020. Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương liên quan chuẩn bị tốt nội dung để tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN trong tháng 6 năm 2020; thực hiện tốt công tác bảo hộ công dân, nhất là trong thời gian dịch bệnh COVID-19. Bộ Quốc phòng theo dõi sát tình hình trên Biển Đông, chủ động phương án ứng phó, kịp thời tham mưu, đề xuất, không để bị động bất ngờ; thực hiện tốt nhiệm vụ được giao về phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm phòng, chống dịch bệnh COVID-19 Bộ Công an tăng cường công tác quản lý hoạt động xuất nhập cảnh, chủ động phương án, kế hoạch phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng, bảo đảm tuyệt đối an toàn về an ninh, trật tự tại các địa điểm tổ chức cách ly tập trung; tập trung trấn áp các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, tín dụng đen, trộm cắp, cướp giật... Xử lý nghiêm theo quy định pháp luật đối với các hành vi vi phạm các biện pháp phòng, chống dịch bệnh COVID-19, kể cả xử lý theo quy định của pháp luật hình sự đối với những hành vi vi phạm có dấu hiệu cấu thành tội phạm. Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông, doanh nghiệp số tích cực vào cuộc, hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương ứng dụng các giải pháp công nghệ, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số; bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt phục vụ công tác phòng, chống dịch; mở rộng dung lượng băng thông kết nối Internet, nâng cao chất lượng dịch vụ viễn thông, nhất là các dịch vụ phục vụ làm việc trực tuyến, dạy và học trực tuyến. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về phòng, chống dịch COVID-19, trong đó chú trọng biểu dương những tấm gương người tốt việc tốt, nghĩa cử cao đẹp, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, chung tay phòng, chống dịch bệnh, các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh; kịp thời phản bác thông tin sai sự thật, bịa đặt gây hoang mang trong dư luận. Các bộ, ngành, địa phương triển khai hình thức họp trực tuyến. Giao Văn phòng Chính phủ chủ trì, tổ chức khảo sát, kết nối các phiên họp, cuộc họp của Lãnh đạo Chính phủ đến các bộ, ngành, địa phương; mở rộng phạm vi triển khai Hệ thống E-cabinet. Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với các Bộ: Công an, Quốc phòng bảm đảm an toàn thông tin các cuộc họp trực tuyến. Các bộ, cơ quan, địa phương bảo đảm kinh phí, bố trí trang thiết bị, đường truyền và triển khai kết nối với hạ tầng mạng truyền số liệu chuyên dùng phục vụ các cuộc họp; mở rộng ứng dụng họp trực tuyến trong điều hành công việc. Rà soát, thẩm định các nhóm đối tượng được hỗ trợ do đại dịch COVID-19 Về dự thảo Nghị quyết về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các bộ, cơ quan liên quan rà soát kỹ các đối tượng, tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ký ban hành theo nguyên tắc: hỗ trợ cho các đối tượng bị giảm sâu thu nhập, mất việc làm, ngừng việc làm, không bảo đảm mức sống tối thiểu do tác động trực tiếp của dịch COVID-19 (không hỗ trợ dàn trải mọi đối tượng); chia sẻ trách nhiệm giữa Nhà nước và doanh nghiệp trong bảo đảm an sinh xã hội với người lao động, có sự phân chia hợp lý giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; xác định rõ trách nhiệm cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương, doanh nghiệp trong việc xác định và bảo đảm hỗ trợ đúng đối tượng, công khai, minh bạch, không để lợi dụng, trục lợi chính sách. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội rà soát, thẩm định các nhóm đối tượng được hỗ trợ, chi tiết theo từng địa phương, gửi Bộ Tài chính để làm cơ sở rà soát lại kinh phí hỗ trợ. Bộ Tài chính rà soát lại kinh phí hỗ trợ, báo cáo các cấp có thẩm quyền theo quy định. Trình ban hành 17 văn bản quy định chi tiết các Luật Về công tác chuẩn bị kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, để đảm bảo chất lượng và tiến độ chuẩn bị kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, Chính phủ yêu cầu các Thành viên Chính phủ khẩn trương trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 17 văn bản quy định chi tiết các Luật đã có hiệu lực thi hành theo phân công trước ngày 15/4/2020. Sớm hoàn thành trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, kiến nghị của cử tri gửi tới kỳ họp thứ 9, lưu ý trả lời đúng yêu cầu đề ra, có giải pháp cụ thể để xử lý, không trả lời chung chung, trích dẫn nghị quyết của Đảng, quy định pháp luật. Chủ động bố trí kế hoạch công tác phù hợp với chương trình kỳ họp của Quốc hội, đảm bảo tham dự đầy đủ các phiên thảo luận, giải trình các nội dung thuộc ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách. Nắm bắt đầy đủ những vấn đề nổi cộm, dư luận xã hội quan tâm thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ, ngành mình để giải trình ngắn gọn, đúng trọng tâm, đúng thời gian quy định tại Phiên chất vấn và trả lời chất vấn; đồng thời chủ động trao đổi, giải trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu cho các đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, cơ quan báo chí về những vấn đề đại biểu Quốc hội, cử tri và dư luận xã hội quan tâm. Đề cao trách nhiệm cá nhân, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về công tác chuẩn bị tài liệu, báo cáo, đảm bảo chất lượng, gửi Quốc hội đúng thời hạn quy định tất cả tài liệu, báo cáo phục vụ kỳ họp thứ 9; trong đó lưu ý việc chuẩn bị báo cáo, tài liệu trình bày tại hội trường bảo đảm đúng thời lượng theo yêu cầu; rà soát thông tin, số liệu thuộc danh mục bí mật nhà nước để báo cáo riêng. Đặc biệt là tiến độ chuẩn bị các nội dung cần xin ý kiến của Quốc hội. Văn phòng Chính phủ chủ động phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Quốc hội tham mưu xây dựng chương trình, thời gian tổ chức kỳ họp thứ 9 phù hợp với tình hình dịch bệnh COVID-19; chuẩn bị tốt cuộc họp liên tịch giữa Đảng đoàn Quốc hội và Ban Cán sự đảng Chính phủ để kịp thời trao đổi, thống nhất cách thức lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị và tổ chức kỳ họp. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và các kết luận của Thanh tra Chính phủ về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo, không để công dân tập trung khiếu kiện đông người tại địa phương hoặc di chuyển đến các cơ quan Trung ương, nhất là tại Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội chủ động phối hợp với Thanh tra Chính phủ và các cơ quan chức năng tuyên truyền, vận động, có biện pháp để công dân trở về địa phương giải quyết, không để công dân tập trung khiếu kiện đông người, kéo dài, gây mất an ninh, trật tự trong thời gian diễn ra kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV. Cấp bù lãi suất cho 4 ngân hàng để hỗ trợ cho vay nhà ở xã hội Về giải pháp để thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cân đối thêm 1.000 tỷ đồng cho Ngân hàng Chính sách xã hội theo Nghị quyết số 71/2018/QH14 và bổ sung 2.000 tỷ đồng để cấp bù lãi suất cho 04 ngân hàng thương mại do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ định để thực hiện hỗ trợ cho vay nhà ở xã hội. Bộ Xây dựng nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số nội dung bất cập tại Nghị định số 100/2015/NĐ-CP để trình Chính phủ xem xét, ban hành trong quý IV năm 2020 theo trình tự thủ tục rút gọn; đề xuất đổi mới phương thức, cơ chế chính sách để giải quyết căn bản nhà ở cho các đối tượng thu nhập thấp. Bộ Xây dựng phối hợp với các địa phương, đặc biệt là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội, đáp ứng nhu cầu của người thu nhập thất, nhất là công nhân. Về kinh phí quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia, Chính phủ thống nhất để Bộ Giao thông vận tải tiếp tục giao dự toán kinh phí quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia năm 2020 cho Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam để thực hiện như năm 2019 theo đề nghị của Bộ Giao thông vận tải. Về tình hình thực hiện nhiệm vụ và một số kiến nghị của các hiệp hội liên quan đến tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trực tiếp chỉ đạo thực hiện Chương trình công tác bảo đảm chất lượng và tiến độ. Các bộ nợ đọng nhiều đề án phải có báo cáo giải trình với Thủ tướng Chính phủ hàng tháng; khẩn trương đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các đề án nợ đọng, bảo đảm trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước ngày 10 tháng 4 năm 2020; đồng thời bảo đảm tiến độ trình 21 đề án theo chương trình công tác tháng 4 năm 2020. Tổ công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, tập trung làm việc với các bộ, cơ quan nợ đọng nhiều đề án và chậm triển khai các nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, nhất là các nhiệm vụ liên quan đến việc đơn giản hóa, cắt giảm thủ tục hành chính. Các bộ, cơ quan liên quan xem xét kiến nghị của các hiệp hội, ngành hàng, xử lý theo thẩm quyền để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh phù hợp với chính sách chung và tình hình thực tế. Chuyển đổi 8 dự án đầu tư PPP sang hình thức đầu tư công Về dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, Chính phủ thống nhất chuyển đổi 8 dự án đầu tư PPP sang hình thức đầu tư công sử dụng toàn bộ ngân sách nhà nước. Bộ Giao thông vận tải chuẩn bị các thủ tục cần thiết để có thể triển khai ngay sau khi Quốc hội chấp thuận chuyển đổi hình thức đầu tư các dự án từ đầu tư PPP sang đầu tư công. Về dự án đường bộ cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ, chấp thuận chuyển đổi hình thức đầu tư Dự án từ phương thức đối tác công tư sang đầu tư công, khởi công dự án vào cuối năm 2020, mục tiêu thông xe kỹ thuật vào năm 2021, khánh thành năm 2022. Về dự án cải tạo đường hạ cất hạ cánh và đường lăn 02 sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Chính phủ thống nhất sử dụng một phần nguồn tăng thu và kinh phí còn lại của ngân sách Trung ương năm 2019 để đầu tư dự án cải tạo đường cất hạ cánh và đường lăn các cảng hàng không quốc tế Nội Bài và Tân Sơn Nhất nhằm bảo đảm an ninh, an toàn trong quá trình vận hành, khai thác là dự án đầu tư công khẩn cấp theo quy định của pháp luật về đầu tư công. Trình tự, thủ tục thực hiện xây dựng công trình theo quy định của pháp luật về xây dựng đối với công trình xây dựng theo lệnh khẩn cấp. Bộ Tài chính tổng hợp dự án trong phương án phân bổ nguồn tăng thu và kinh phí còn lại của ngân sách Trung ương năm 2019, báo cáo cấp có thẩm quyền theo quy định. Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải chủ động quyết định theo thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tận dụng ngay thời điểm các sân bay đang giảm tần suất khai thác do ảnh hưởng của dịch Covid-19 để triển khai dự án hiệu quả, đúng quy định để sớm đưa vào khai thác. Gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 41/2020/NĐ-CP gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất. Theo đó, Nghị định quy định việc gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất. Nghị định áp dụng với các đối tượng gồm doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân hoạt động sản xuất trong các ngành kinh tế sau: a- Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản; b - Sản xuất, chế biến thực phẩm; dệt; sản xuất trang phục; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế); sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác; sản xuất kim loại; gia công cơ khí; xử lý và tráng phủ kim loại; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; sản xuất ô tô và xe có động cơ khác; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế; c - Xây dựng. Bên cạnh đó, Nghị định áp dụng cho các đối tượng doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân hoạt động kinh doanh trong các ngành kinh tế như vận tải kho bãi; dịch vụ lưu trú và ăn uống; giáo dục và đào tạo; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội; hoạt động kinh doanh bất động sản; hoạt động dịch vụ lao động và việc làm; hoạt động của các đại lý du lịch, kinh doanh tua du lịch và các dịch vụ hỗ trợ, liên quan đến quảng bá và tổ chức tua du lịch; hoạt động sáng tác, nghệ thuật và giải trí; hoạt động của thư viện, lưu trữ, bảo tàng và các hoạt động văn hóa khác; hoạt động thể thao, vui chơi giải trí; hoạt động chiếu phim... Nghị định còn áp dụng cho các đối tượng doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân hoạt động sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển; sản phẩm cơ khí trọng điểm; doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ; tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện các giải pháp hỗ trợ khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19 theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nghị định nêu rõ việc gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng (trừ thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu). Cụ thể, gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế giá trị gia tăng phát sinh phải nộp của kỳ tính thuế tháng 3, tháng 4, tháng 5, tháng 6/2020 (đối với trường hợp kê khai thuế giá trị gia tăng theo tháng) và kỳ tính thuế quý 1, quý 2/2020 (đối với trường hợp kê khai thuế giá trị gia tăng theo quý) của các doanh nghiệp, tổ chức nêu trên. Thời gian gia hạn là 05 tháng, kể từ ngày kết thúc thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Trường hợp người nộp thuế khai bổ sung hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế được gia hạn dẫn đến làm tăng số thuế giá trị gia tăng phải nộp và gửi đến cơ quan thuế trước khi hết thời hạn nộp thuế được gia hạn thì số thuế được gia hạn bao gồm cả số thuế phải nộp tăng thêm do khai bổ sung. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, Nghị định nêu rõ, việc gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế thu nhập doanh nghiệp còn phải nộp theo quyết toán của kỳ tính thuế năm 2019 và số thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp quý 1, quý 2 của kỳ tính thuế năm 2020 của doanh nghiệp, tổ chức là người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng Nghị định này. Thời gian gia hạn là 05 tháng, kể từ ngày kết thúc thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Trường hợp doanh nghiệp, tổ chức đã thực hiện nộp số thuế thu nhập doanh nghiệp còn phải nộp theo quyết toán của năm 2019 vào ngân sách nhà nước thì doanh nghiệp, tổ chức được điều chỉnh số thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp để nộp cho số phải nộp của các loại thuế khác. Để thực hiện điều chỉnh, người nộp thuế lập thư tra soát (Mẫu số C1-11/NS ban hành kèm theo Thông tư số 84/2016/TT-BTC ngày 17/6/2016 của Bộ Tài chính) kèm theo chứng từ nộp thuế hoặc thông tin liên quan đến nội dung đề nghị điều chỉnh gửi cơ quan thuế. Đối với thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân của hộ gia đình, cá nhân kinh doanh, Nghị định quy định gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân đối với số tiền thuế phát sinh phải nộp năm 2020 chậm nhất vào ngày 31/12/2020. Đối với tiền thuê đất, Nghị định nêu rõ, gia hạn thời hạn nộp tiền thuê đất đối với số tiền thuê đất phải nộp kỳ đầu năm 2020 của doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc đối tượng áp dụng Nghị định này đang được Nhà nước cho thuê đất trực tiếp theo Quyết định, Hợp đồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới hình thức trả tiền thuê đất hàng năm. Thời gian gia hạn là 05 tháng kể từ ngày 31/5/2020. Quy định này áp dụng cho cả trường hợp doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có nhiều Quyết định, Hợp đồng thuê đất trực tiếp của Nhà nước và có nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh khác nhau trong đó có ngành kinh tế, lĩnh vực quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 và khoản 5 Điều 2 Nghị định này. Trường hợp doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh nhiều ngành kinh tế khác nhau trong đó có ngành kinh tế, lĩnh vực quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 và khoản 5 Điều 2 Nghị định này thì doanh nghiệp, tổ chức được gia hạn toàn bộ số thuế giá trị gia tăng, số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp; hộ gia đình, cá nhân kinh doanh được gia hạn toàn bộ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo hướng dẫn tại Nghị định này. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 8/4/2020. Quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 47/2020/NĐ-CP quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước. Nghị định này quy định về các hoạt động quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước bao gồm: quản lý, quản trị dữ liệu số; kết nối, chia sẻ dữ liệu số; sử dụng, khai thác dữ liệu số của cơ quan nhà nước; cung cấp dữ liệu mở của cơ quan nhà nước cho tổ chức, cá nhân; quyền và trách nhiệm trong kết nối, chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước. Giá trị pháp lý của dữ liệu được chia sẻ trong thông điệp dữ liệu được xác định theo giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu quy định tại Mục 1 Chương II Luật Giao dịch điện tử và quy định của pháp luật có liên quan. Nguyên tắc chung về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu: Dữ liệu hình thành trong hoạt động của cơ quan nhà nước được chia sẻ phục vụ các hoạt động của cơ quan nhà nước hướng tới phục vụ người dân, doanh nghiệp tuân thủ quy định của pháp luật trong việc tạo lập, quản lý và sử dụng dữ liệu. Cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm chia sẻ dữ liệu với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật; không cung cấp thông tin qua hình thức văn bản đối với thông tin đã được khai thác qua hình thức kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin; không được thu thập, tổ chức thu thập lại dữ liệu hoặc yêu cầu người dân, doanh nghiệp cung cấp thông tin, dữ liệu trong quá trình giải quyết các thủ tục hành chính nếu dữ liệu này đã được cơ quan nhà nước khác cung cấp, sẵn sàng cung cấp thông qua kết nối, chia sẻ dữ liệu, trừ trường hợp dữ liệu đó không bảo đảm yêu cầu về chất lượng theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên ngành hoặc pháp luật có quy định khác. Việc chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước không làm ảnh hưởng tới quyền lợi và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan, không được xâm phạm quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Dữ liệu chia sẻ phải bảo đảm tính cập nhật, chính xác theo quy định của pháp luật; dữ liệu chia sẻ giữa các cơ quan nhà nước là không thu phí, trừ trường hợp khai thác, sử dụng dữ liệu thuộc danh mục được quy định trong Luật Phí và lệ phí. Dữ liệu của cơ quan nhà nước chia sẻ cho tổ chức, cá nhân thực hiện theo các nguyên tắc sau: Tổ chức, cá nhân được quyền khai thác dữ liệu của mình hoặc dữ liệu của tổ chức, cá nhân khác khi được tổ chức, cá nhân đó chấp nhận, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; các trường hợp ngoài quy định trên, dữ liệu của cơ quan nhà nước được chia sẻ cho tổ chức, cá nhân được thực hiện theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin và các quy định của pháp luật hiện hành. Yêu cầu quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu Cơ quan nhà nước thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu phải thực hiện, tuân thủ các yêu cầu sau: 1- Chỉ định một cán bộ làm đầu mối phụ trách kết nối và chia sẻ dữ liệu; công khai số điện thoại, địa chỉ thư điện tử, tên và vị trí, chức năng cán bộ đầu mối phụ trách. Cán bộ đầu mối phụ trách có trách nhiệm tiếp nhận, phối hợp, xử lý các vấn đề về kết nối, chia sẻ dữ liệu của cơ quan, đơn vị mình đối với cơ quan, đơn vị bên ngoài. 2- Công khai thông tin về đầu mối phụ trách kết nối, chia sẻ dữ liệu; các thông tin về sự sẵn sàng chia sẻ dữ liệu và các thông tin cần công bố khác theo quy định tại Nghị định này. 3- Tuân thủ các quy định về bảo mật thông tin; các quy định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến dữ liệu; quyền riêng tư của tổ chức, cá nhân. 4- Bảo đảm dữ liệu chia sẻ phải có khả năng gửi, nhận, lưu trữ, xử lý được bằng thiết bị số. 5- Tuân thủ các quy định, hướng dẫn kỹ thuật về trao đổi dữ liệu, về ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước và các nguyên tắc được quy định tại Điều 5 của Nghị định này. 6- Phù hợp với Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam. Nghị định cũng quy định rõ các hành vi không được làm gồm: Cản trở hoạt động kết nối, quyền khai thác và sử dụng dữ liệu hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật; mua bán, trao đổi, chia sẻ dữ liệu trái quy định của pháp luật; vi phạm các quy định về quyền sở hữu trí tuệ, quyền bảo vệ thông tin cá nhân khi kết nối, chia sẻ dữ liệu; làm sai lệch dữ liệu trong quá trình lưu chuyển dữ liệu từ cơ quan cung cấp dữ liệu tới cơ quan khai thác dữ liệu; phá hoại cơ sở hạ tầng thông tin, làm gián đoạn việc kết nối, chia sẻ dữ liệu. Nghị định có hiệu lực từ ngày 25/5/2020. Quy định về cưỡng chế thi hành án đối với pháp nhân thương mại Chính phủ vừa ban hành Nghị định 44/2020/NĐ-CP quy định về cưỡng chế thi hành án đối với pháp nhân thương mại. Nghị định này quy định về nguyên tắc, biện pháp, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với pháp nhân thương mại được quy định tại Điều 163 Luật Thi hành án hình sự. Theo đó, biện pháp cưỡng chế thi hành án áp dụng đối với pháp nhân thương mại gồm: Phong tỏa tài khoản; kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền bảo đảm thi hành cưỡng chế biện pháp tư pháp (kê biên tài sản); tạm giữ tài liệu, chứng từ, thiết bị chứa dữ liệu điện tử; tạm giữ hoặc thu hồi con dấu của pháp nhân thương mại. Về nguyên tắc áp dụng cưỡng chế thi hành án đối với pháp nhân thương mại, Nghị định nêu rõ: Việc cưỡng chế chỉ được thực hiện khi có quyết định cưỡng chế bằng văn bản của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền. Việc quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào hình phạt, biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại, nội dung, tính chất, mức độ, điều kiện thi hành quyết định cưỡng chế và tình hình thực tế ở địa phương. Thời hạn áp dụng biện pháp cưỡng chế để bảo đảm thi hành án không quá thời hạn chấp hành hình phạt theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; thời hạn bảo đảm thi hành biện pháp tư pháp được xác định khi biện pháp tư pháp được thi hành xong. Pháp nhân thương mại có thể bị áp dụng một hoặc một số biện pháp cưỡng chế trong cùng một thời điểm nếu việc áp dụng một biện pháp cưỡng chế không đủ để bảo đảm thi hành án. Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân thương mại, tổ chức, cá nhân có liên quan trong cưỡng chế thi hành án. Nghị định có hiệu lực từ 1/6/2020. Phương tiện vận tải hàng hóa nguy hiểm phải dán biểu trưng hàng nguy hiểm Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 42/2020/NĐ-CP quy định Danh mục hàng hoá nguy hiểm, vận chuyển hàng hoá nguy hiểm bằng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và vận chuyển hàng hóa nguy hiểm trên đường thuỷ nội địa. Nghị định này áp dụng với tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá nguy hiểm bằng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, vận chuyển hàng hóa nguy hiểm trên đường thuỷ nội địa trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 9 loại hàng hóa nguy hiểm Theo Nghị định, tùy theo tính chất hóa, lý, hàng hoá nguy hiểm được phân thành 9 loại và nhóm loại sau đây: Loại 1: Chất nổ và vật phẩm dễ nổ gồm: Nhóm 1.1: Chất và vật phẩm có nguy cơ nổ rộng; nhóm 1.2: Chất và vật phẩm có nguy cơ bắn tóe nhưng không nổ rộng; nhóm 1.3: Chất và vật phẩm có nguy cơ cháy và nguy cơ nổ nhỏ hoặc bắn tóe nhỏ hoặc cả hai, nhưng không nổ rộng; nhóm 1.4: Chất và vật phẩm có nguy cơ không đáng kể; nhóm 1.5: Chất rất không nhạy nhưng có nguy cơ nổ rộng; nhóm 1.6: Vật phẩm đặc biệt không nhạy, không có nguy cơ nổ rộng. Loại 2: Khí gồm: Nhóm 2.1: Khí dễ cháy; nhóm 2.2: Khí không dễ cháy, không độc hại; nhóm 2.3: Khí độc hại. Loại 3: Chất lỏng dễ cháy và chất nổ lỏng khử nhạy. Loại 4: Nhóm 4.1: Chất rắn dễ cháy, chất tự phản ứng và chất nổ rắn được ngâm trong chất lỏng hoặc bị khử nhạy; nhóm 4.2: Chất có khả năng tự bốc cháy; nhóm 4.3: Chất khi tiếp xúc với nước tạo ra khí dễ cháy Loại 5: Nhóm 5.1: Chất ôxi hóa; nhóm 5.2: Perôxít hữu cơ. Loại 6: Nhóm 6.1: Chất độc; nhóm 6.2: Chất gây nhiễm bệnh. Loại 7: Chất phóng xạ. Loại 8: Chất ăn mòn. Loại 9: Chất và vật phẩm nguy hiểm khác. Các bao bì, thùng chứa hàng hoá nguy hiểm chưa được làm sạch bên trong và bên ngoài sau khi dỡ hết hàng hoá nguy hiểm cũng được coi là hàng hoá nguy hiểm tương ứng. Phương tiện vận chuyển hàng hoá nguy hiểm Nghị định quy định, phương tiện vận chuyển phải đủ điều kiện tham gia giao thông theo quy định của pháp luật. Thiết bị chuyên dùng của phương tiện vận chuyển hàng hóa nguy hiểm phải bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia hoặc quy chuẩn kỹ thuật quốc gia hoặc theo quy định của Bộ quản lý chuyên ngành. Phương tiện vận tải hàng hóa nguy hiểm phải dán biểu trưng hàng hóa nguy hiểm. Nếu trên một phương tiện có nhiều loại hàng hóa nguy hiểm khác nhau thì phương tiện phải dán đủ biểu trưng của các loại hàng hóa đó. Vị trí dán biểu trưng ở hai bên và phía sau của phương tiện. Phương tiện vận tải hàng hóa nguy hiểm, sau khi dỡ hết hàng hóa nguy hiểm nếu không tiếp tục vận tải loại hàng hóa đó thì phải được làm sạch và bóc hoặc xóa biểu trưng nguy hiểm trên phương tiện vận chuyển hàng hoá nguy hiểm. Việc làm sạch và bóc hoặc xóa biểu trưng nguy hiểm trên phương tiện được thực hiện theo quy trình và ở nơi quy định. Nghị định cũng quy định việc xếp, dỡ hàng hoá nguy hiểm trên phương tiện và lưu kho bãi. Cụ thể, tổ chức, cá nhân liên quan đến việc xếp, dỡ hàng hoá nguy hiểm trên phương tiện vận chuyển và lưu kho, bãi phải tuân thủ đúng chỉ dẫn về bảo quản, xếp, dỡ, vận chuyển của từng loại hàng hoá nguy hiểm hoặc trong thông báo của người thuê vận tải. Việc xếp, dỡ hàng hoá nguy hiểm phải do người thủ kho, người thuê vận tải hoặc người áp tải trực tiếp hướng dẫn và giám sát. Không xếp chung các loại hàng hóa có thể tác động lẫn nhau làm tăng mức độ nguy hiểm trong cùng một phương tiện. Đối với loại, nhóm hàng hóa nguy hiểm quy định phải xếp, dỡ, lưu giữ ở nơi riêng biệt thì việc xếp, dỡ phải thực hiện tại khu vực kho, bến bãi riêng biệt. Trường hợp vận chuyển hàng hoá nguy hiểm không quy định phải có người áp tải thì người vận tải phải thực hiện xếp, dỡ hàng hóa theo chỉ dẫn của người thuê vận tải. Sau khi đưa hết hàng hóa nguy hiểm ra khỏi kho, bãi thì nơi lưu giữ hàng hóa nguy hiểm phải được làm sạch để không ảnh hưởng tới hàng hóa khác theo đúng quy trình quy định. Quy định mới về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc Chính phủ vừa ban hành Nghị định 43/2020/NĐ-CP quy định về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc. Nghị định này quy định về thuốc tiêm và cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện sử dụng cho thi hành án tử hình, quy trình thực hiện việc tiêm thuốc; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thi hành án tử hình; điều kiện bảo đảm cho thi hành án tử hình và chế độ, chính sách đối với cán bộ tham gia thi hành án tử hình. Trong đó, thuốc tiêm để sử dụng cho thi hành án tử hình bao gồm: Thuốc làm mất tri giác; thuốc làm liệt hệ vận động; thuốc làm ngừng hoạt động của tim. Một liều thuốc gồm 03 loại thuốc nêu trên và dùng cho 01 người. Thuốc sử dụng cho thi hành án tử hình do Bộ Y tế cấp theo đề nghị của Bộ Công an, Bộ quốc phòng. Bảo quản thuốc theo điều kiện ghi trên nhãn liều thuốc, hướng dẫn của đơn vị cung cấp. Việc bàn giao thuốc phải được lập biên bản giao, nhận; niêm phong, quản lý chặt chẽ theo quy định của pháp luật. Về cơ sở vật chất bảo đảm phục vụ cho thi hành án tử hình, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng căn cứ vào tình hình thực tiễn để đầu tư xây dựng nhà thi hành án tử hình và phòng làm việc của Hội đồng thi hành án tử hình tại Công an cấp tỉnh, đơn vị quân đội cấp quân khu để bảo đảm phục vụ công tác thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc. Trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho thi hành án tử hình bao gồm: Giường nằm có các đai dùng để cố định người bị thi hành án; máy tiêm thuốc tự động có ấn nút điều khiển; máy kiểm tra nhịp đập của tim; màn hình và các thiết bị theo dõi, kiểm tra quá trình thi hành án; các dụng cụ và trang thiết bị khác phục vụ cho thi hành án. Về chi phí mai táng, chi phí mai táng người bị thi hành án tử hình bao gồm: 01 quan tài bằng gỗ, 01 bộ quần áo, 04 m vải liệm, hương, nến, rượu, cồn để làm vệ sinh khi liệm tử thi và các chi phí mai táng khác. Trường hợp thân nhân hoặc người đại diện hợp pháp của người bị kết án tử hình được nhận tử thi, tro cốt về mai táng thì phải tự chịu chi phí và phải cam kết chấp hành đúng quy định của pháp luật về bảo đảm an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 15/4/2020. Nghị định này thay thế Nghị định số 82/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc; Nghị định số 47/2013/NĐ-CP ngày 13/5/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 49-KL/TW ngày 10/5/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13/4/2007 của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Kế hoạch nhằm mục đích nâng cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp và tổ chức xã hội; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tích cực tham gia công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Một trong những nhiệm vụ, giải pháp của kế hoạch là tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, công tác quản lý của các cấp chính quyền; sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả và đồng bộ giữa các ngành, các cấp và cả hệ thống chính trị. Các bộ, ngành, địa phương phối hợp chặt chẽ với tổ chức đảng và cấp ủy cùng cấp tổ chức nghiên cứu, quán triệt, triển khai nội dung Chỉ thị số 11-CT/TW và Kết luận số 49-KL/TW trong toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc thẩm quyền quản lý nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội, hoàn thành trong quý II năm 2020. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an lồng ghép chuyên đề về công tác khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập trong chương trình giáo dục chính trị tại các cơ sở giáo dục và đào tạo theo phạm vi quản lý. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” và đề xuất định hướng, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng xã hội học tập giai đoạn tiếp theo, hoàn thành trong quý IV năm 2020. Kế hoạch còn có nhiệm vụ đẩy mạnh và đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền. Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam và các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan truyền thông, báo chí, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp và tổ chức xã hội làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng với các hình thức phù hợp về vai trò, vị trí quan trọng của công tác khuyến học, khuyến tài, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; về mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục triển khai công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đã nêu trong Chỉ thị và Kết luận của Trung ương. Bên cạnh đó, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp và tổ chức xã hội. Hội Khuyến học Việt Nam hướng dẫn Hội khuyến học các cấp phối hợp với các bộ, ngành, địa phương có kế hoạch xây dựng các tổ chức khuyến học trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, lực lượng vũ trang trên phạm vi cả nước. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hướng dẫn Liên đoàn Lao động cấp tỉnh, tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp vận động người sử dụng lao động tạo điều kiện để công nhân, người lao động được học tập nâng cao trình độ, kỹ năng phù hợp với mong muốn của người lao động và điều kiện của doanh nghiệp; thành lập quỹ khuyến học, khuyến tài hỗ trợ công nhân và con em công nhân nghèo hiếu học. Phát triển tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động và đa dạng các mô hình học tập, chú trọng đào tạo từ xa. Trong đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát, hoàn thiện quy chế kiểm tra, công nhận kết quả học tập giáo dục thường xuyên; liên thông giữa giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên; tăng cường hợp tác xây dựng, kết nối, chia sẻ tài nguyên giáo dục mở; việt hóa các nguồn tài nguyên giáo dục mở quốc tế; xây dựng và mở rộng các kênh và công cụ học tập, chú trọng các hình thức, nội dung, chương trình, phương pháp học trực tuyến. UBND cấp tỉnh có trách nhiệm rà soát, củng cố, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên, các thiết chế giáo dục ngoài nhà trường, các thiết chế văn hóa ở cơ sở và bảo đảm các nguồn lực để các cơ sở, các thiết chế này hoạt động có hiệu quả, bền vững; đồng thời rà soát, củng cố và kiện toàn tổ chức, hoạt động của Hội khuyến học trên địa bàn. Tăng cường cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ cho việc đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong việc cung ứng các chương trình học tập thường xuyên, suốt đời cho mọi người. Tiếp tục xóa mù chữ cho người lớn, thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động. Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và hướng dẫn thực hiện chương trình, tài liệu dạy học xóa mù chữ; hoàn thiện, nâng cấp phần mềm Hệ thống thông tin quản lý phổ cập giáo dục, xóa mù chữ. Đổi mới cơ chế tài chính, đẩy mạnh xã hội hóa công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng công dân học tập, đơn vị học tập và tỉnh, thành phố học tập. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát, hoàn thiện các chính sách để tăng cường huy động và đa dạng hóa các nguồn lực xã hội thúc đẩy công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; nghiên cứu, đề xuất cơ chế miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp tham gia các hoạt động giáo dục thường xuyên, học tập suốt đời. Phối hợp giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quy chế phối hợp giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế. Quy chế này quy định nguyên tắc, nhiệm vụ, quyền hạn và quy trình phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế tại trọng tài quốc tế hoặc cơ quan tài phán khác không phải của Việt Nam (trọng tài quốc tế). Quy chế này không áp dụng đối với các việc giải quyết khiếu kiện về đầu tư được giải quyết tại trọng tài, tòa án hoặc cơ quan, tổ chức của Việt Nam theo pháp luật của Việt Nam. Về nguyên tắc phối hợp, cơ quan chủ trì, cơ quan đại diện pháp lý cho Chính phủ và cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm phối hợp đầy đủ, hiệu quả, kịp thời trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế theo quy định tại Quy chế này và quy định của pháp luật Việt Nam để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của Chính phủ Việt Nam, cơ quan nhà nước Việt Nam. Cơ quan chủ trì, cơ quan đại diện pháp lý cho Chính phủ và cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm giữ bí mật Nhà nước, bí mật thông tin, tài liệu có được trong quá trình giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế theo đúng quy định trong tố tụng trọng tài quốc tế và quy định của pháp luật Việt Nam. Cơ quan chủ trì, cơ quan đại diện pháp lý cho Chính phủ và cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hậu quả phát sinh do không phối hợp hoặc phối hợp không đúng các nguyên tắc nêu trên. Quy chế quy định cụ thể nội dung phối hợp gồm: Trao đổi thông tin, tài liệu giữa các cơ quan liên quan trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, vướng mắc của nhà đầu tư nước ngoài nhằm phòng ngừa tranh chấp đầu tư quốc tế. Bên cạnh đó, phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế: cử người có đủ năng lực của cơ quan, tổ chức mình tham gia Tổ công tác liên ngành giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế khi được cơ quan chủ trì yêu cầu; tham gia thương lượng, hòa giải các tranh chấp đầu tư quốc tế; xây dựng và thực hiện chiến lược, lộ trình, các bước giải quyết việc tranh chấp đầu tư quốc tế; thu thập và cung cấp thông tin, hồ sơ, chứng cứ và tài liệu phục vụ giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế; xử lý các nội dung liên quan đến phán quyết, quyết định của trọng tài quốc tế; thực hiện các công việc khác trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế. Cơ quan chủ trì giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế Quy chế cũng quy định cụ thể cơ quan chủ trì giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế. Theo đó, cơ quan chủ trì là bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ hoặc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (UBND cấp tỉnh) có biện pháp bị kiện hoặc đe dọa bị kiện, trừ trường hợp quy định. Trong trường hợp tranh chấp đầu tư quốc tế có các biện pháp bị kiện của hai hoặc nhiều bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ hoặc UBND cấp tỉnh, các cơ quan này phải thống nhất cơ quan chủ trì trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo ý định khởi kiện. Trường hợp không thống nhất được cơ quan chủ trì, cơ quan nhận được thông báo ý định khởi kiện thông báo cho cơ quan đại diện pháp lý cho Chính phủ để báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định cơ quan chủ trì trên nguyên tắc cơ quan chủ trì là cơ quan có liên quan nhiều nhất tới biện pháp bị kiện và có năng lực phù hợp nhất để giải quyết vụ tranh chấp đầu tư quốc tế. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ hoặc UBND cấp tỉnh chủ trì đàm phán, ký hoặc thay mặt Nhà nước, Chính phủ Việt Nam ký hợp đồng, thỏa thuận, cam kết với nhà đầu tư nước ngoài là cơ quan chủ trì giải quyết vụ việc tranh chấp đầu tư quốc tế phát sinh trên cơ sở hợp đồng, thỏa thuận, cam kết đó. Bộ Tài chính là cơ quan chủ trì giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế phát sinh khi nhà đầu tư nước ngoài kiện Nhà nước, Chính phủ Việt Nam liên quan đến khoản vay, nợ của Chính phủ hoặc khoản vay, nợ được Chính phủ bảo lãnh theo quy định của pháp luật quản lý nợ công, tranh chấp đầu tư quốc tế liên quan đến việc áp dụng pháp luật về tài chính, thuế. Trong trường hợp tranh chấp đầu tư quốc tế phức tạp có ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ đối ngoại, an ninh hoặc quốc phòng, Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định cơ quan chủ trì. Sớm ban hành cơ chế, chính sách tốt nhất tháo gỡ khó khăn trước tác động của COVID-19 Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về chuẩn bị nội dung Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; hỗ trợ người dân, bảo đảm an sinh xã hội; bảo đảm trật tự an toàn xã hội ứng phó dịch COVID-19. Thông báo kết luận nêu rõ, Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; hỗ trợ người dân, bảo đảm an sinh xã hội; bảo đảm trật tự an toàn xã hội ứng phó dịch COVID-19 thể hiện trách nhiệm của Chính phủ, các cấp, các ngành với nhân dân nhằm ổn định đời sống nhân dân, khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh, trên tinh thần mọi cấp, mọi ngành, mọi người dân, doanh nghiệp đều cố gắng, nỗ lực khắc phục khó khăn, tập trung quyết liệt ngăn chặn dịch bệnh, đồng thời nỗ lực duy trì, phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo đảm các thành phần yếu thế của xã hội có cuộc sống tối thiểu cần thiết trong bối cảnh dịch bệnh. Hội nghị sẽ tập trung thảo luận, cho ý kiến để hoàn thiện và sớm ban hành Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh giải ngân đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội ứng phó dịch COVID-19 (Nghị quyết), với các cơ chế, chính sách tốt nhất trong điều kiện và nguồn lực cho phép, tập trung khắc phục khó khăn, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội năm 2020 và tạo đà cho các năm tiếp theo, giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh; cụ thể hóa các chủ trương, chính sách hỗ trợ, tạo thuận lợi của Đảng, Nhà nước, Chính phủ với nhân dân, doanh nghiệp theo tinh thần quyết liệt, quyết tâm và trách nhiệm cao. Để chuẩn bị tốt cho Hội nghị bảo đảm chất lượng, hiệu quả, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan tập trung hoàn thiện báo cáo; chuẩn bị bài trình bày ngắn gọn, dễ hiểu, dễ triển khai thực hiện, trên tinh thần tiếp thu ý kiến các đại biểu tại cuộc họp; trong đó đánh giá khái quát và cô đọng về tình hình của dịch bệnh trong nước và quốc tế; nhấn mạnh hầu hết các quốc gia đều đồng loạt thực hiện các biện pháp mạnh kích thích kinh tế, nỗ lực vượt qua suy thoái; khái quát tình hình kinh tế - xã hội trong nước trong bối cảnh suy thoái toàn cầu; tăng trưởng nhiều ngành, lĩnh vực suy giảm; nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, thu hẹp quy mô, doanh thu giảm, thua lỗ, phá sản. Vì vậy, cần có Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm trật tự an toàn xã hội ứng phó dịch COVID-19. Thủ tướng yêu cầu Báo cáo của các Bộ, cơ quan tại Hội nghị phải thổi luồng gió mới, quyết tâm mới để khởi động một thời kỳ khắc phục, vươn lên mạnh mẽ, vượt qua khó khăn, tác động của dịch bệnh. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chuẩn bị báo cáo về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công ứng phó dịch COVID-19 và dự thảo Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ để Hội nghị thảo luận, tham gia ý kiến và sớm ban hành sau Hội nghị, trong đó nêu rõ các giải pháp nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và kiến nghị các giải pháp thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đối với giải ngân vốn đầu tư công: (i) Nêu rõ yêu cầu, nhận thức trong toàn quốc; các cấp, các ngành phải giải ngân hết vốn còn lại của năm 2019 và vốn kế hoạch năm 2020 với tổng số vốn gần 700 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 30 tỷ USD, không để dồn lại cuối năm như những năm trước đây; (ii) Xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng đối với cấp ủy, chính quyền các cấp, các Bộ, ngành, cơ quan trung ương, địa phương theo tinh thần Bộ ngành nào, cơ quan nào, địa phương nào làm chậm thì người đứng đầu phải trực tiếp kiểm điểm trách nhiệm; nếu đến tháng 9 năm 2020 dự án nào không giải ngân thì sẽ điều chuyển vốn sang cơ quan, đơn vị khác. Khẳng định Việt Nam là điểm đến an toàn của du lịch và đầu tư với môi trường đầu tư thuận lợi nhất đối với các nhà đầu tư. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính nêu rõ các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về tài chính, ngân sách nhà nước, nhất là thuế, phí, lệ phí để tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp, trong đó nêu rõ các nhóm giải pháp và số liệu cụ thể như giảm giá điện, giá nước, giá viễn thông, giãn, hoãn, miễn giảm các loại thuế, phí... Tính toán cụ thể và có phương án về xử lý nguồn trong bối cảnh giảm thu ngân sách nhà nước do hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều ngành suy giảm. Đảm bảo kinh phí cho phòng chống dịch bệnh COVID-19 và đảm bảo nguồn cho an sinh xã hội; trong đó nhấn mạnh biện pháp tiết kiệm triệt để chi tiêu ngân sách nhà nước, chi thường xuyên (hội nghị, hội thảo, đi công tác trong và ngoài nước...) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện hiệu quả; đồng thời nghiên cứu mở rộng gói hỗ trợ tín dụng hơn 300 nghìn tỷ theo tinh thần không để doanh nghiệp thiếu vốn tín dụng, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp duy trì sản xuất, kinh doanh với lãi suất thấp, công khai, công bằng, minh bạch; chỉ đạo các tổ chức tín dụng triệt để tiết giảm chi phí hoạt động, tiếp tục giảm lãi suất cả các khoản vay mới và khoản vay hiện hữu, hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn hiện nay. Bộ Công Thương quán triệt tinh thần tạo mọi thuận lợi cho xuất khẩu, đẩy mạnh triển khai và khai thác cơ hội từ các Hiệp định thương mại, sẵn sàng cung cấp nguồn hàng hóa dồi dào, chất lượng cao, giá cả phù hợp, đảm bảo đủ số lượng trong điều kiện dịch bệnh; đẩy mạnh thương mại điện tử, chú trọng cả xuất khẩu và thị trường trong nước, bảo đảm các khâu phân phối, lưu thông. Tập trung đẩy nhanh tiến độ các dự án công nghiệp trọng điểm, nhất là các dự án điện, năng lượng, bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và đời sống; kêu gọi, thu hút phát triển các dự án mới. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quán triệt tinh thần nông nghiệp, nông thôn là nền tảng để ổn định, bảo đảm an ninh lương thực, trong đó xác định rõ sản lượng gạo vụ hè thu sắp tới, không để thiếu gạo, đồng thời đề ra các giải pháp mới như thúc đẩy chăn nuôi, thủy sản, cung ứng nông sản và các vấn đề trọng tâm của ngành nông nghiệp hiện nay; tái đàn, bảo đảm nguồn cung thịt lợn, tăng cường quản lý giá thịt lợn, giảm khâu trung gian như chợ đầu mối, lò mổ...; xuất khẩu gạo có kiểm soát, gỡ thẻ vàng thủy sản, mô hình phát triển kinh tế nông thôn, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới... Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu thường xuyên đánh giá, kiểm tra việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đề ra, nhất là các địa phương, vùng kinh tế trọng điểm, các tỉnh, thành phố lớn, các Bộ liên quan trực tiếp, đặc biệt là về giải ngân vốn đầu tư công, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh. Quan tâm đến tình hình sản xuất, kinh doanh của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó tập trung, phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo của khu vực kinh tế tư nhân; có các giải pháp thúc đẩy đầu tư xã hội, đầu tư khu vực tư nhân theo tinh thần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, tăng cường triển khai dịch vụ công trực tuyến thông qua Cổng dịch vụ công quốc gia; thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư nước ngoài, nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh; tận dụng cơ hội thu hút các luồng vốn đầu tư dịch chuyển vào Việt Nam. Các Bộ, ngành, địa phương phải tiếp tục nỗ lực hơn nữa, chủ động các giải pháp để cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục hồi sản xuất kinh doanh sau dịch bệnh theo hướng hiệu quả, an toàn, bền vững. Đoàn Thanh niên cần phát huy vai trò tiên phong, có ý chí, khát vọng vươn lên Với phương châm hành động của năm 2020 là "Kỷ cương, liêm chính, hành động, trách nhiệm, sáng tạo, hiệu quả", Đoàn Thanh niên cần phát huy vai trò tiên phong, bản lĩnh, nhiệt huyết, vượt qua khó khăn, thử thách, có hoài bão, ý chí, khát vọng vươn lên, có sức sáng tạo mới, cống hiến phục vụ nhân dân, đất nước để cùng toàn Đảng, toàn dân nỗ lực phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ đã đề ra cho năm 2020. Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Quy chế phối hợp công tác của Chính phủ và Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh năm 2019. Thông báo nêu rõ, trong những thành tựu chung của cả nước có sự đóng góp tích cực của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và lực lượng thanh niên cả nước. Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ biểu dương, đánh giá cao sự nỗ lực phấn đấu và kết quả đạt được của cán bộ, đoàn viên thanh niên các cấp, đứng đầu là Ban Bí thư, Ban chấp hành Trung ương Đoàn. Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo các Bộ, ngành luôn dành thời gian gặp gỡ, trao đổi, đối thoại với thanh niên và tham dự các hoạt động của Trung ương Đoàn. Đã phối hợp chặt chẽ trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách pháp luật đối với thanh niên, công tác thanh niên và cán bộ Đoàn, Hội, Đội; nhất là xây dựng và góp ý đối với dự thảo Luật Thanh niên (sửa đổi). Năm 2019, với chủ đề công tác “Năm Thanh niên tình nguyện”, Đoàn đã triển khai nhiều hoạt động sôi nổi, mạnh mẽ để giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống đẹp cho thanh niên; số lượt thanh niên tham gia các hoạt động tình nguyện trong năm 2019 tăng gấp 3 lần so với năm 2018; tích cực tham gia xây dựng Hệ tri thức Việt số hóa, khơi dậy khát vọng, niềm đam mê khoa học công nghệ của thanh niên; việc sử dụng mạng xã hội để nắm tình hình thanh niên được thực hiện ở tất cả các cấp bộ đoàn. Công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên được chú trọng và thực chất như an toàn giao thông; phòng chống tệ nạn xã hội và cảm hóa, giáo dục thanh thiếu niên chậm tiến. Trung ương Đoàn là đơn vị đầu tiên hoàn thành việc quy hoạch và sắp xếp báo chí theo Quyết định 362/QĐ-TTg ngày 03/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt trong bối cảnh đại dịch toàn cầu COVID-19 đang diễn ra, các cấp bộ đoàn đã có nhiều hoạt động xung kích, thực hiện “chống dịch như chống giặc”, tổ chức các mô hình hay có ý nghĩa thiết thực như xây dựng các “Điểm rửa tay”, phát nước rửa tay, khẩu trang miễn phí, Đội phản ứng nhanh phòng chống dịch COVID-19, sinh viên ngành y tình nguyện đăng ký tham gia công tác phòng, chống dịch tại các địa bàn trọng điểm… Các báo, tạp chí của Đoàn, trang thông tin điện tử của các cấp bộ Đoàn, Hội, Đội thường xuyên cập nhật tin bài, đăng tải kịp thời, chính xác về công tác phòng, chống dịch. Về trọng tâm công tác phối hợp năm 2020, với phương châm hành động là "Kỷ cương, liêm chính, hành động, trách nhiệm, sáng tạo, hiệu quả", Đoàn Thanh niên cần phát huy vai trò tiên phong, bản lĩnh, nhiệt huyết, vượt qua khó khăn, thử thách, có hoài bão, ý chí, khát vọng vươn lên, có sức sáng tạo mới, cống hiến phục vụ nhân dân, đất nước để cùng toàn Đảng, toàn dân nỗ lực phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ đã đề ra cho năm 2020. Đoàn thanh niên tiếp tục làm tốt hơn nữa một số nhiệm vụ trọng tâm công tác phối hợp. Cụ thể, đổi mới phương thức tổ chức hoạt động của Đoàn, Hội phù hợp với điều kiện phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Huy động mạnh mẽ sự vào cuộc của đoàn viên, thanh niên tham gia các hoạt động phòng, chống, khống chế dịch, nhân rộng các mô hình hay, cách làm hiệu quả; vận động nguồn lực xã hội để hỗ trợ phòng chống COVID-19. Bên cạnh đó, phát động chương trình 6,3 triệu Đoàn viên, thanh niên khai báo y tế, tổ chức các đội hình thanh niên, sinh viên tình nguyện “Đi từng ngõ, gõ từng nhà, hỏi từng công dân" vận động, hướng dẫn, giúp đỡ người dân khai báo y tế để giúp phân loại được người già, người có bệnh nền, người yếu thế. Phát huy các sáng kiến của đoàn viên, thanh niên (đặc biệt là đội ngũ trí thức trẻ) tham gia phòng chống dịch bệnh bằng các giải pháp công nghệ mới, phù hợp. Xây dựng phương án hỗ trợ những người cao tuổi, người tàn tật, người bệnh, người nghèo, các đối tượng dễ bị tổn thương cũng như các em học sinh..., những người bị ảnh hưởng nặng nề sau đại dịch COVID-19. Tiếp tục xây dựng hình mẫu thanh niên trong thời kỳ mới với năng lực, phẩm chất, bản lĩnh đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và trước những thách thức đối với đất nước “càng khó khăn, thanh niên càng phải cố gắng vượt qua”; chú trọng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong thanh thiếu niên, nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật. Đấu tranh trên không gian mạng, nhất là đối với các tin giả, thông tin độc hại, xuyên tạc. Phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong các nhiệm vụ chung của đất nước, nhất là tham gia lao động, xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, giữ vững ổn định chính trị xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh; mở rộng các hoạt động đối ngoại, góp phần đổi mới công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường sự hiểu biết, đoàn kết với các tổ chức thanh niên các nước trong khu vực và trên thế giới; có nhiều hình thức hoạt động phong phú, đa dạng, phù hợp với tuổi trẻ, lôi cuốn thanh niên tham gia tích cực các phong trào cách mạng, nhất là trên các lĩnh vực, các địa bàn còn nhiều khó khăn, thể hiện rõ vai trò xung kích theo tinh thần “đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”. Tăng cường phối hợp, chăm lo tốt hơn nhu cầu, lợi ích của thanh niên. Tập trung hỗ trợ, tạo cơ hội thuận lợi cho thanh niên tiếp cận cơ hội học tập, hình thành môi trường thuận lợi cho thanh niên phát triển năng lực, làm việc. Trong đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, chính quyền các cấp cần quan tâm vấn đề việc làm, hoạt động hướng nghiệp cho thanh niên sau đại dịch COVID-19. Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí lành mạnh cho thanh niên, nhất là ở các khu công nghiệp, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Nâng cao hiệu quả các nội dung công tác phối hợp giữa Chính phủ với Trung ương Đoàn. Trong đó, các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục cụ thể hóa Quy chế phối hợp vào chương trình công tác hằng năm, các nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Các Bộ, ngành tăng cường phối hợp, hỗ trợ Đoàn Thanh niên đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình, nhiệm vụ được giao. Hoàn thành việc ký quy chế phối hợp giữa Ủy ban nhân dân các tỉnh với Ban Chấp hành Đoàn cùng cấp ở các địa phương còn lại. Giao nhiệm vụ đặt hàng xét nghiệm chẩn đoán COVID-19 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa có ý kiến về đề nghị của Bộ Tài chính và Bộ Y tế về việc giao cơ sở y tế tư nhân thực hiện xét nghiệm chẩn đoán COVID-19. Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ đồng ý về chủ trương cho phép được đặt hàng cung cấp dịch vụ xét nghiệm chẩn đoán COVID-19 như đề nghị của Bộ Tài chính. Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các Bộ: Tài chính, Tư pháp và các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định về việc đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo quy định tại Nghị định 32/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 của Chính phủ quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí thường xuyên theo đúng quy định của pháp luật. Sóc Trăng cần quyết tâm giành “thắng lợi kép” trong phát triển KTXH Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Sóc Trăng về tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 và quý I năm 2020. Sóc Trăng có vị trí quan trọng trong vùng duyên hải phía đông vùng Đồng bằng sông Cửu Long, những năm qua, kinh tế - xã hội của Tỉnh có nhiều điểm sáng, có bước phát triển vượt bậc, nhất là năm 2019, Tỉnh đạt và vượt cả 20/20 chỉ tiêu kinh tế - xã hội, trong đó tăng trưởng kinh tế trên địa bàn (GRDP) đạt 7,3% (cao nhất kể từ năm 2015), thu nhập bình quân đầu người đạt 46 triệu đồng/năm. Quý I năm 2020, trong điều kiện khó khăn chung, sản xuất công nghiệp và thương mại, dịch vụ đều có bước tăng trưởng khá so với bình quân chung cả nước, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 5,1% so cùng kỳ; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 5,21%; xuất khẩu tăng hơn 12%. Sóc Trăng là một trong những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, hạn hán và xâm nhập mặn, trong sản xuất nông nghiệp Tỉnh đã tích cực, chủ động xuống giống sớm, giảm tối đa thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn gây ra, năng suất bình quân đạt 6,32 tấn/ha, sản lượng đạt hơn 1 triệu tấn, là một trong 5 tỉnh có năng suất lúa cao nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long, có giống gạo ST25 đạt giải gạo ngon nhất thế giới. Tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ, quyết liệt, thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chỉ thị, Công điện và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành về phòng, chống dịch COVID-19, thành lập 23 đội phản ứng nhanh, chuẩn bị các cơ sở cách ly tập trung và thực hiện tốt công tác cách ly theo đúng quy định, đến nay chưa ghi nhận ca dương tính với vi-rút SARS-COV-2. Bên cạnh việc phát huy những điểm mạnh, thành tựu, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tỉnh Sóc Trăng cần quan tâm chỉ đạo khắc phục bất cập, khó khăn trong một số lĩnh vực như: Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng phát triển, giải ngân vốn đầu tư công còn chậm, phát triển doanh nghiệp còn khó khăn, kết cấu hạ tầng giao thông còn bất cập, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo, đặc biệt là hộ nghèo người dân tộc Khmer còn ở mức cao. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Sóc Trăng cần tiếp tục huy động sử dụng tốt mọi nguồn lực, chủ động, tích cực, tập trung cao độ triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống dịch bệnh COVID-19 theo Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 và Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 27/3/2020. Tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra, quyết tâm giành “thắng lợi kép” trong phát triển kinh tế - xã hội, thích ứng biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh và phòng, chống dịch COVID-19, phấn đấu đến năm 2025, Sóc Trăng phải là một tỉnh phát triển khá của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đồng thời, theo dõi sát, thông tin nhanh chóng, kịp thời tình hình hạn hán, xâm nhập mặn và huy động tốt các nguồn lực, triển khai thực hiện các giải pháp phù hợp với thực tế của địa phương để phòng, chống hạn hán, xâm nhập mặn; chỉ đạo kiên quyết hơn các giải pháp cơ cấu lại ngành nông nghiệp, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới hình thức tổ chức sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu và phù hợp khả năng bảo đảm nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân. Bên cạnh đó, huy động các nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng, tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án trọng điểm, có tính liên kết vùng trên địa bàn; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, phát triển các ngành dịch vụ, phát huy tiềm năng, thế mạnh trong du lịch, nhất là du lịch lễ hội, văn hóa – lịch sử; khuyến khích đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp, phấn đấu đến năm 2021 số lượng doanh nghiệp tăng gấp 3 lần lên khoảng 8 nghìn doanh nghiệp. Tỉnh Sóc Trăng cần phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trên mọi lĩnh vực, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho người dân và doanh nghiệp; cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền điện tử, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Làm tốt công tác dân tộc, tôn giáo, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; giữ vững quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Kiểm tra phản ánh liên quan đến dự án thủy điện Thượng Kon Tum Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, UBND tỉnh Kon Tum kiểm tra phản ánh trên báo điện tử VTV nêu liên quan đến dự án thủy điện Thượng Kon Tum. Trước đó, báo điện tử VTV ngày 3/4/2020 có nêu: Mặc dù vấp phải sự phản ánh của các nhà khoa học, nhà quản lý, nhưng vì nhiều lý do thủy điện Thượng Kon Tum vẫn được xây dựng, đi trái với quy luật tự nhiên gây bức xúc trong dư luận. Về nội dung trên, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, UBND tỉnh Kon Tum kiểm tra thông tin nêu trên. Thủ tướng bổ nhiệm lại nhân sự Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa quyết định bổ nhiệm lại Thứ trưởng Bộ Ngoại giao và Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Tại Quyết định số 466/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ nhiệm lại ông Bùi Thanh Sơn giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Thời gian bổ nhiệm lại tính từ ngày 10/2/2020. Tại Quyết định số 468/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ nhiệm lại ông Dương Quang Thành giữ chức Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Thời gian bổ nhiệm lại được tính kể từ ngày 25/3/2020. Phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch tỉnh Phú Thọ Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa ký Quyết định số 490/QĐ-TTg phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Phạm vi quy hoạch là phần lãnh thổ tỉnh Phú Thọ với tổng diện tích tự nhiên là 3.534,6 km2. Nguyên tắc lập quy hoạch tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 phải bảo đảm phù hợp, thống nhất, đồng bộ với mục tiêu, định hướng của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 của cả nước; chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững; các điều ước quốc tế mà Việt Nam là nước thành viên; bảo đảm tính nhân dân, sự tuân thủ, tính liên tục, kế thừa, ổn định, thứ bậc trong hệ thống quy hoạch quốc gia; bảo đảm tính khả thi, khoa học, khách quan, công khai, minh bạch; ứng dụng công nghệ hiện đại, kết nối liên thông, tiết kiệm, hiệu quả. Mục tiêu lập quy hoạch đặt ra là cụ thể hóa quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng ở cấp tỉnh về không gian các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hệ thống đô thị và phân bố dân cư nông thôn, kết cấu hạ tầng, phân bổ đất đai, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường trên cơ sở kết nối quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn; sắp xếp, phân bố không gian các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh gắn với phát triển kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường trên địa bàn để sử dụng các nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển cân đối, hài hòa, hiệu quả và bền vững trong thời kỳ quy hoạch. Đồng thời, là công cụ để lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý toàn diện, thống nhất trên địa bàn tỉnh tỉnh Phú Thọ; là căn cứ để hoạch định chính sách và kiến tạo động lực phát triển; là cơ sở để quản lý và thu hút đầu tư, đẩy nhanh các khâu đột phá chiến lược về phát triển hạ tầng; đồng thời loại bỏ các quy hoạch chồng chéo cản trở đầu tư phát triển trên địa bàn; cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm công khai minh bạch, công bằng trong huy động, tiếp cận cũng như phát huy tối đa các nguồn lực trong hoạt động đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội - môi trường. Yêu cầu về nội dung lập quy hoạch cần định hướng phát triển, sắp xếp không gian và phân bố nguồn lực cho các hoạt động kinh tế - xã hội phải đồng bộ với quy hoạch cấp quốc gia, cấp vùng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững trên cả 3 trụ cột: Kinh tế, xã hội và môi trường; phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế, các cam kết trong các điều ước quốc tế đa phương và song phương mà Việt Nam là thành viên. Đảm bảo tính liên kết, đồng bộ, khai thác và sử dụng hiệu quả hệ thống kết cấu hạ tầng hiện có giữa các ngành và các vùng liên huyện, các địa phương trên địa bàn tỉnh; xác định cụ thể các khu vực sử dụng cho mục đích quân sự, quốc phòng, an ninh ở cấp tỉnh, liên huyện và định hướng bố trí trên địa bàn cấp huyện. Xây dựng và cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội; chú trọng thúc đẩy phát triển các khu vực có điều kiện khó khăn, đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và đảm bảo sinh kế bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; phân bổ, khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên gắn với bảo tồn các giá trị lịch sử - văn hóa, di sản thiên nhiên cho các thế hệ hiện tại và tương lai./. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chủ trì cuộc họp Ban Chỉ đạo phòng chống dịch bệnh COVID-19 ngày 06/4 Chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 10/4 Print 926 Rate this article: No rating
Quyết định 147 - Bổ sung Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ của Viện Khoa học Thể dục thể thao 16 Tháng Chín 2024
Viện Khoa học TDTT tổ chức gặp mặt, tri ân nhân Kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 18 Tháng Mười Một 2024
Quyết định về việc Quy định thu học phí đào tạo nghiên cứu sinh năm 2023 - 2024 08 Tháng Mười Một 2023
Việt Nam – Trung Quốc tăng cường hợp tác, trao đổi trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học TDTT 06 Tháng Chín 2024