Responsive image

Thông tin báo chí chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 01/9

THÔNG TIN BÁO CHÍ

THÔNG TIN CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Thủ tướng chỉ thị triển khai biện pháp cấp bách chủ động ứng phó thiên tai

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Chỉ thị số 35/CT-TTg về triển khai một số biện pháp cấp bách để chủ động ứng phó thiên tai.

Chỉ thị nêu rõ, dự báo, mùa mưa, bão đến muộn vào cuối năm, khả năng xuất hiện khoảng 7-9 cơn bão, trong đó khoảng từ 4-5 cơn ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền nước ta, tập trung nhiều ở khu vực Trung Bộ và phía Nam; nguy cơ mưa lũ lớn dồn dập và kéo dài ở khu vực miền Trung; lũ quét, sạt lở đất tại khu vực vùng núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ.

Để chủ động phòng ngừa, ứng phó hiệu quả với diễn biến bất thường của thiên tai trong thời gian tới, nhất là tình huống xảy ra mưa lũ lớn kéo dài, bão mạnh, lũ quét, sạt lở đất, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, Ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, các bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền các cấp ở địa phương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2020 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai và Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 18/6/2018 của Chính phủ về công tác phòng chống thiên tai.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo dõi chặt chẽ diễn biến thiên tai, kịp thời chỉ đạo, triển khai công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai trên địa bàn theo phương châm "bốn tại chỗ"; rà soát, cập nhật kịch bản để chủ động ứng phó với tình huống thiên tai nguy hiểm như mưa, lũ lớn diện rộng, bão muộn, lũ quét, sạt lở đất.

Bên cạnh đó, chỉ đạo tổng kiểm tra các khu vực nguy hiểm, nhất là các khu vực có nguy cơ sạt lở đất, lũ quét ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn dân cư để chủ động sơ tán, di dời bảo đảm an toàn khi có thiên tai; kiểm tra công trình đê điều, hồ đập trên địa bàn, phương án, nguồn lực bảo đảm an toàn đê điều, hồ đập trước tình huống xảy ra mưa lũ lớn, nhất là các vị trí, công trình trọng điểm, xung yếu, bị hư hỏng.

Chủ động bố trí ngân sách địa phương và huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để kịp thời khắc phục ngay các sự cố hư hỏng, xử lý các trọng điểm xung yếu bảo đảm an toàn cho đê điều, hồ đập và thực hiện công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn trên địa bàn.

Chỉ đạo giám sát vận hành an toàn hồ đập, tuyệt đối không cho tích nước đối với các hồ chứa nước không đảm bảo an toàn; tăng cường lắp đặt hệ thống theo dõi, giám sát, cung cấp số liệu cho các đơn vị chức năng theo quy định, thông tin cảnh báo đảm bảo an toàn hạ du khi xả lũ. Hỗ trợ trang thiết bị và nâng cao năng lực cho lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai cấp xã để thực hiện tốt công tác phòng, chống thiên tai theo phương châm “bốn tại chỗ”.

Rà soát kịch bản cụ thể để chủ động ứng phó với các tình huống thiên tai nguy hiểm

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai chỉ đạo, đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương rà soát kịch bản cụ thể để chủ động ứng phó với các tình huống thiên tai nguy hiểm, nhất là mưa lũ lớn dài ngày, xả lũ lớn từ thượng nguồn sông xuyên biên giới, bão mạnh, siêu bão, lũ quét, sạt lở đất, ngập lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, không để bị động, bất ngờ trong ứng phó.

Theo dõi chặt chẽ diễn biến thiên tai, kịp thời chỉ đạo triển khai công tác ứng phó thiên tai và tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác ứng phó các tình huống thiên tai nguy hiểm theo nhiệm vụ được giao; chỉ đạo, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổng hợp, đề xuất khắc phục khẩn cấp hậu quả thiên tai, nhất là các vị trí đê điều, hồ đập trọng điểm xung yếu, khu vực sạt lở, lũ quét để chủ động ứng phó tình huống mưa, lũ lớn.

Nâng cao năng lực theo dõi, giám sát diễn biến thiên tai; đẩy nhanh tiến độ đầu tư hệ thống theo dõi, giám sát chuyên dùng phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của Ban Chỉ đạo để tiếp nhận và truyền tải thông tin kịp thời, chính xác.

Ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, Bộ Quốc phòng chỉ đạo, đôn đốc bổ sung, hoàn thiện phương án cứu hộ, cứu nạn, đặc biệt là phương án ứng phó khi xảy ra thiên tai, lũ lớn, ngập lụt diện rộng; căn cứ tình hình cụ thể chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương chỉ đạo bố trí lực lượng, phương tiện phù hợp tại các địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa để kịp thời, tiếp cận xử lý mọi tình huống thiên tai khi có yêu cầu.

Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức quan trắc, đo đạc, theo dõi chặt chẽ, dự báo và cung cấp thông tin kịp thời về tình hình thiên tai và dòng chảy trên các sông xuyên biên giới phục vụ công tác chỉ đạo, ứng phó; tiếp tục nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai; dự báo sớm, dài hạn, bảo đảm thông tin kịp thời, tin cậy, liên tục.

Kiểm tra, triển khai công tác đảm bảo an toàn đối với hồ đập thủy lợi

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương chỉ đạo rà soát, kiểm tra, triển khai công tác đảm bảo an toàn đối với công trình thuộc lĩnh vực được giao quản lý, nhất là các hồ dập thủy điện, hệ thống điện và hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo rà soát, kiểm tra, triển khai công tác đảm bảo an toàn đối với hồ đập thủy lợi, hệ thống đê điều; chủ động chỉ đạo hoạt động sản xuất nông nghiệp, thủy sản hạn chế tác động do thiên tai.

Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo rà soát, kiểm tra phương án bảo đảm an toàn giao thông trong các tình huống thiên tai; chủ động bố trí lực lượng, vật tư, thiết bị tại các khu vực trọng điểm có nguy cơ sạt lở, ngập sâu để bảo đảm an toàn giao thông và sẵn sàng khắc phục khi xảy ra sự cố.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính rà soát, ưu tiên cân đối, bố trí nguồn vốn dự phòng ngân sách trung ương năm 2020 và các nguồn vốn khác, phối hợp với Ban Chỉ đạo trung ương về phòng chống thiên tai hỗ trợ địa phương khắc phục nhanh hậu quả thiên tai và thực hiện một số nhiệm vụ phòng, chống thiên tai cấp bách nhằm chủ động ứng phó với tình huống mưa lũ lớn, xử lý khẩn cấp một số trọng điểm sạt lở, đê điều, hồ đập thủy lợi xung yếu, không đảm bảo an toàn chống lũ, nguy cơ cao xảy ra sự cố.

Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và các cơ quan thông tấn, báo chí tiếp tục làm tốt công tác thông tin, đưa tin kịp thời diễn biến thiên tai, hướng dẫn kỹ năng ứng phó để người dân biết, chủ động phòng, tránh. Các bộ, ngành khác chủ động chỉ đạo cơ quan chức năng triển khai phương án phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn theo chức năng quản lý nhà nước được giao, hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra.

Nghị quyết phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 8/2020

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 123/NQ-CP phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 8/2020.

Nghị quyết nêu rõ, về nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ được phân công chủ trì soạn thảo các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tăng cường công tác xây dựng pháp luật thuộc thẩm quyền, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành theo đúng chương trình, kế hoạch, bảo đảm chất lượng các dự án, dự thảo; khẩn trương rà soát các vướng mắc, bất cập, báo cáo kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực phụ trách theo Kế hoạch ban hành kèm theo Quyết định số 209/QĐ-TTg ngày 7/2/2020 của Thủ tướng Chính phủ, để xây dựng, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành.

Các bộ, cơ quan ngang bộ được giao xây dựng văn bản quy định chi tiết theo phân công của Thủ tướng Chính phủ khẩn trương hoàn thiện trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản quy định chi tiết các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực, xử lý dứt điểm tình trạng nợ đọng trong tháng 9 năm 2020; đồng thời, tập trung nguồn lực xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản quy định chi tiết các luật, pháp lệnh có hiệu lực từ ngày 1/1/2021.

Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, chịu trách nhiệm trước Chính phủ việc tổ chức, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành mình. Cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật chủ động tổ chức soạn thảo, lấy ý kiến của đối tượng điều chỉnh, ý kiến của các bộ, ngành có liên quan; đề xuất cấp có thẩm quyền giải quyết kịp thời các vướng mắc; nghiên cứu tiếp thu và giải trình đầy đủ ý kiến khác nhau trước khi hoàn thiện dự án, dự thảo trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Bộ Tư pháp tăng cường các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật khi trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các cơ chế, chính sách ngăn chặn tệ nạn ma túy

Về dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), Chính phủ thống nhất với nội dung cơ bản của dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện Luật phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) nhằm tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các cơ chế, chính sách về đấu tranh, phòng, chống, ngăn chặn có hiệu lực, hiệu quả đối với tội phạm và tệ nạn ma túy đang diễn ra phức tạp ở trong nước và trên thế giới; đồng thời, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, cũng như phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Về các vấn đề có ý kiến khác nhau, Chính phủ đã thảo luận và thống nhất: (1) Dự án Luật quy định người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện ma túy mà bị phát hiện thực hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nếu bị Tòa án xử phạt tù thì người đó được miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính; (2) Chính phủ quy định chi tiết việc lập hồ sơ đưa người nghiện từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện ma túy bắt buộc. Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp này tại Tòa án nhân dân.

Chính phủ giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện các thủ tục, hồ sơ theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tiếp thu ý kiến của Thành viên Chính phủ, khẩn trương hoàn thiện dự án Luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trình Quốc hội khóa XIV tại Kỳ họp thứ 10.

Đánh giá tác động khi nhập 3 lực lượng: Bảo vệ dân phố, Dân phòng, Công an xã bán chuyên trách

Về dự án Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, đây là dự án Luật mới, quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Chính phủ đánh giá cao Bộ Công an trong một thời gian ngắn đã chủ động, khẩn trương, đồng thời vừa đề xuất Đề nghị xây dựng và hoàn thành việc nghiên cứu, soạn thảo, trình Chính phủ dự án Luật.

Chính phủ thống nhất với nội dung cơ bản của dự án Luật. Về một số vấn đề quan trọng của dự án Luật, Chính phủ đã thảo luận và thống nhất: (1) Quy định đầy đủ hơn về tiêu chuẩn, nguyên tắc, quy trình tuyển chọn vào Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; giao Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết vấn đề này; (2) Quy định về việc hình thành tổ chức cụ thể của Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở phải thể hiện rõ tính tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở, không hành chính hóa; tổ chức và hoạt động phải bảo đảm tính linh hoạt, hợp lý, phù hợp với đặc điểm dân cư, với yêu cầu bảo vệ an ninh, trật tự của từng vùng miền, từng khu vực, tránh tình trạng dập khuôn, “cào bằng”; tiết kiệm chi ngân sách nhà nước và đóng góp của Nhân dân; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; quản lý của chính quyền địa phương, cơ sở; sự chỉ huy thống nhất, thông suốt về chuyên môn, hoạt động của Công an xã, phường, thị trấn; (3) Quy định đầy đủ cơ chế phối hợp của Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở với các lực lượng công an và các tổ chức tự quản tại địa phương, bảo đảm không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ.

Chính phủ đề nghị Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính tiếp tục đánh giá tác động đầy đủ, kỹ lưỡng hơn về tổ chức, thành phần, số lượng, cơ cấu, khi nhập 03 lực lượng: Bảo vệ dân phố, Dân phòng, Công an xã bán chuyên trách kết thúc nhiệm vụ thành một lực lượng thống nhất và đánh giá tổng dự kiến mức chi, nguồn kinh phí bảo đảm điều kiện hoạt động của Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở, bảo đảm tính khả thi; rà soát các Luật có liên quan: Luật Cán bộ, công chức, Luật Cư trú, Luật Thi hành án hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế,… để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật. Nếu cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều khoản của các luật có liên quan thì sửa đổi, bổ sung ngay tại Luật này để bảo đảm tính thống nhất trong áp dụng pháp luật.

Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến của Thành viên Chính phủ, khẩn trương chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trình Quốc hội khóa XIV tại Kỳ họp thứ 10.

Quy định về điểm của giấy phép lái xe là một biện pháp quản lý hành chính

Về dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, Chính phủ thống nhất về sự cần thiết ban hành và nội dung cơ bản của dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ được xây dựng trên cơ sở đổi mới, hoàn thiện các chính sách, nội dung quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ tách ra từ Luật Giao thông đường bộ hiện hành, nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và công tác tổ chức thực thi pháp luật, tạo bước chuyển biến cơ bản, bền vững trong việc bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra.    

Về phạm vi điều chỉnh, Chính phủ thảo luận và thống nhất: dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ quy định các vấn đề về quy tắc giao thông; đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe; đăng ký và cấp, thu hồi biển số xe cơ giới; tổ chức an toàn giao thông và chỉ huy, điều khiển giao thông đường bộ; giải quyết ùn tắc, tai nạn giao thông; các biện pháp thực thi pháp luật trong phát hiện, xử lý vi phạm về an toàn giao thông đường bộ.

Do còn ý kiến khác nhau, nên trong Tờ trình Quốc hội về dự án Luật này, Chính phủ đề nghị Quốc hội cho ý kiến về vấn đề đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe, theo 2 phương án: Phương án 1: Vấn đề đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe thuộc phạm vi điều chỉnh của dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ; Phương án 2: Dự án Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) tiếp tục điều chỉnh vấn đề đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe. Bộ Công an chủ trì, phối hợp Bộ Giao thông vận tải xây dựng nội dung thuyết minh phù hợp cho từng phương án.

Về những vấn đề khác có ý kiến khác nhau, Chính phủ thống nhất: Quy định về điểm của giấy phép lái xe là một biện pháp quản lý hành chính (không phải là một hình thức xử phạt hành chính) theo hướng giấy phép lái xe được cấp 12 điểm/01 năm, nếu trong 01 năm mà bị trừ hết điểm thì phải thi lại giấy phép lái xe, còn nếu không trừ hết điểm thì phải cấp lại 12 điểm để áp dụng cho năm kế tiếp hoặc trong 01 năm mà không có vi phạm thì phải được cộng điểm, tức là phải có hình thức cộng lại điểm (hoặc khôi phục điểm) cho giấy phép lái xe hàng năm. Trên cơ sở đó, Chính phủ sẽ quy định cụ thể thẩm quyền, căn cứ, trình tự, thủ tục thực hiện, bảo đảm đơn giản, hợp lý, tránh phiền hà cho người dân; dự thảo Luật quy định mang tính nguyên tắc; Chính phủ sẽ quy định cụ thể các hành vi, nhóm hành vi vi phạm trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông đường bộ bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe trong nghị định xử phạt vi phạm hành chính có liên quan.

Để bảo đảm tính chủ động, linh hoạt trong tổ chức thực thi, phù hợp với thực tiễn quản lý, về cơ bản, các vấn đề thuộc nội dung của Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ cần được quy định theo hướng mang tính nguyên tắc, nhất là về phân công trách nhiệm quản lý nhà nước của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương.   

Chính phủ giao Bộ Công an tiếp thu ý kiến các Thành viên Chính phủ, khẩn trương chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trình Quốc hội khóa XIV tại Kỳ họp thứ 10.

Đổi mới chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra giao thông

Chính phủ thống nhất về sự cần thiết ban hành và thông qua nội dung cơ bản của dự án Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giao thông đường bộ, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kết cấu hạ tầng đường bộ hiện đại, hiệu quả, nâng cao chất lượng hệ thống mạng lưới đường bộ, phát triển vận tải đường bộ phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới.

Dự án Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) có phạm vi điều chỉnh bao gồm các vấn đề: kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; vận tải đường bộ; quản lý an toàn kỹ thuật phương tiện giao thông đường bộ; hệ thống báo hiệu đường bộ gắn với kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; tổ chức giao thông gắn với kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.

Về một số vấn đề cụ thể liên quan đến phạm vi điều chỉnh của dự án Luật bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ và dự án Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi), Chính phủ thống nhất như sau: Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ Công an xây dựng, ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ thống báo hiệu đường bộ; phối hợp với Bộ Công an trong việc xây dựng, ban hành quy tắc giao thông đường bộ, chương trình, nội dung đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe; đổi mới chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra giao thông cho phù hợp với vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Giao thông vận tải về giao thông đường bộ, không chồng chéo, trùng lắp với chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát giao thông.

Chính phủ giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành liên quan tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ, khẩn trương chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trình Quốc hội khóa XIV tại Kỳ họp thứ 10.

Bộ Công an và Bộ Giao thông vận tải tiếp tục phối hợp chặt chẽ với nhau và với các cơ quan có liên quan rà soát, kịp thời đề xuất chỉnh lý các nội dung quy định cụ thể của từng dự án Luật, nhất là đối với các vấn đề có sự giao thoa, chồng lấn, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, không chồng chéo, trùng lặp.

Một số cán bộ nghỉ hưu từ 1/9/2020

Thủ tướng Chính phủ đã có các quyết định nghỉ hưu từ 1/9/2020 đối với Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; Phó Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam và Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Cụ thể, tại Quyết định 867/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ quyết định ông Nguyễn Thành Hưng, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, nghỉ hưu theo chế độ từ ngày 1/9/2020.

Tại Quyết định 868/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ quyết định ông Nguyễn Thành Lương, Phó Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, nghỉ hưu từ ngày 1/9/2020.

Tại Quyết định 1073/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ quyết định ông Nguyễn Đình Khương, Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam, nghỉ hưu từ ngày 1/9/2020.

Phân công nhân sự Ủy ban sông Mê Công Việt Nam

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký Quyết định phân công Chủ tịch, Phó Chủ tịch Thường trực, Phó Chủ tịch Ủy ban sông Mê Công Việt Nam.

Cụ thể, Thủ tướng phân công Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng đảm nhận chức danh Chủ tịch Ủy ban sông Mê Công Việt Nam. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đảm nhận chức danh Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam.

Phó Chủ tịch Ủy ban sông Mê Công Việt Nam gồm: Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung; Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Văn Trung; Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Hoàng Hiệp.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 31/8/2020 và thay thế các Quyết định số 1312/QĐ-TTg ngày 6/9/2017 và Quyết định số 690/QĐ-TTg ngày 5/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao đảm nhận chức danh Phó Chủ tịch Ủy ban sông Mê Công Việt Nam.

Sửa đổi tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư

Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg ngày 31/8/2018 quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư; thủ tục xét hủy bỏ công nhận chức danh và miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư.

Cụ thể, về tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư, Thủ tướng Chính phủ sửa đổi tiêu chuẩn thứ 8 về bài báo khoa học. Theo đó, giáo sư phải có bài báo khoa học quy định tại các khoản 4,6,7 và điểm c khoản 9 Điều 5 Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg. Phó giáo sư có bài báo khoa học quy định tại các khoản 4,5,6 Điều 6 Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg. Bài báo khoa học trên là bài báo khoa học được công bố trên tạp chí khoa học quốc tế có uy tín.

Đối với các chuyên ngành thuộc ngành Khoa học quân sự và ngành Khoa học an ninh liên quan đến bí mật nhà nước thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh thì bài báo khoa học công bố trên tạp chí khoa học quốc tế có uy tín được thay thế bằng các bài báo khoa học công bố trên các tạp chí khoa học uy tín của ngành Khoa học quân sự và ngành Khoa học an ninh (bài báo thay thế). Tổng số điểm của các bài báo thay thế cho mỗi bài báo khoa học công bố trên tạp chí khoa học quốc tế có uy tín phải đạt 1,5 điểm trở lên và toàn bộ số điểm của các bài báo thay thế cho các bài báo khoa học công bố trên tạp chí khoa học quốc tế có uy tín không được tính vào tổng số điểm công trình khoa học quy đổi tối thiểu.

Đối với chức danh giáo sư, bài báo khoa học và bài báo thay thế được tính từ thời điểm sau khi ứng viên được công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư.

Đối với chức danh phó giáo sư, bài báo khoa học và bài báo thay thế được tính từ thời điểm sau khi ứng viên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ.

Quy định trên có hiệu lực từ ngày 31/8/2020.

Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp (DN) nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa giai đoạn 2021-2030.

Mục tiêu chung của Chương trình nhằm hỗ trợ DN nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa (năng suất chất lượng) trên cơ sở áp dụng các giải pháp về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất chất lượng, góp phần nâng tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Giai đoạn 2021-2025, tỷ lệ hài hòa của hệ thống tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực đạt khoảng 65%; đào tạo, chứng nhận đạt tiêu chuẩn cho khoảng 600 chuyên gia năng suất chất lượng tại các bộ, cơ quan, địa phương và DN.

Giai đoạn 2026-2030, tỷ lệ hài hòa của hệ thống tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực đạt khoảng 70-75%; đào tạo, chứng nhận đạt tiêu chuẩn cho khoảng 1.000 chuyên gia năng suất chất lượng, trong đó có khoảng 200 chuyên gia được chứng nhận đạt trình độ khu vực và quốc tế.

Giai đoạn 2021-2030, số DN được hỗ trợ các giải pháp nâng cao năng suất và chất lượng hàng năm tăng từ 10-15%, trong đó, số giấy chứng nhận Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 và số giấy chứng nhận Hệ thống quản lý môi trường ISO 14001 cấp cho DN tăng ít nhất 10% so với giai đoạn 2011-2020; có ít nhất 100 DN được hướng dẫn áp dụng đồng bộ các giải pháp nâng cao năng suất chất lượng, trở thành mô hình điểm để chia sẻ, nhân rộng trên toàn quốc.

Để đạt được các mục tiêu trên, Chương trình đề ra nhiệm vụ và giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động nâng cao năng suất chất lượng. Nghiên cứu đề xuất cơ chế, chính sách, các giải pháp về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thúc đẩy, nâng cao năng suất quốc gia, ngành, địa phương và DN trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế.

Đồng thời, tăng cường công tác thông tin, truyền thông về năng suất chất lượng. Đẩy mạnh phổ biến, hướng dẫn áp dụng các hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất chất lượng, nhất là các công cụ hỗ trợ cho sản xuất thông minh, dịch vụ thông minh vào DN. Tôn vinh, khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích cao trong hoạt động nâng cao năng suất chất lượng. Khuyến khích, hỗ trợ DN tham gia các hoạt động của Giải thưởng chất lượng quốc gia.

Bên cạnh đó, hỗ trợ DN áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất chất lượng cơ bản, đẩy mạnh áp dụng các hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất chất lượng đặc thù cho ngành, lĩnh vực, tiêu chuẩn về các hệ thống quản lý mới được công bố. Hỗ trợ DN áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa, áp dụng thực hành nông nghiệp tốt (G.A.P). thực hành sản xuất nông nghiệp hữu cơ, năng suất xanh...

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, điều hành hoạt động của Chương trình; hướng dẫn các bộ, cơ quan, địa phương liên quan xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Chương trình.

Nhiệm vụ lập Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Mục tiêu lập quy hoạch nhằm tổ chức, sắp xếp hợp lý mạng lưới các cơ quan báo chí, thông tin điện tử, xuất bản, thông tin cơ sở, thông tin đối ngoại chú trọng hiệu quả hoạt động, đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, ứng dụng công nghệ mới, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, phát triển nguồn nhân lực. Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhu cầu thông tin của người dân, bảo đảm an ninh quốc phòng, đồng thời theo kịp khả năng và trình độ phát triển thông tin của các nước trong khu vực và quốc tế.

Một trong những nội dung quy hoạch là đánh giá thực trạng phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản, thông tin cơ sở, thông tin đối ngoại. Trong đó, cần đánh giá thực trạng và sự phù hợp về phân bố, sử dụng không gian của ngành; đánh giá sự liên kết giữa ba lĩnh vực: xuất bản - in - phát hành trên địa bàn cả nước và vùng lãnh thổ; đánh giá sự liên kết giữa mạng lưới báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản, thông tin cơ sở, thông tin đối ngoại với các ngành, lĩnh vực khác.

Đồng thời, dự báo xu thế phát triển, kịch bản phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản, thông tin cơ sở, thông tin đối ngoại. Các kịch bản phát triển ảnh hưởng trực tiếp đến mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản, thông tin cơ sở, thông tin đối ngoại trong thời kỳ quy hoạch.

Từ đó, xác định các quan điểm, mục tiêu phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản, thông tin cơ sở, thông tin đối ngoại quốc gia trong thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm phê duyệt chi tiết nội dung, dự toán của dự án và lựa chọn đơn vị lập quy hoạch theo đúng quy định hiện hành.

Các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông lập Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo quy định, bảo đảm hiệu quả, đúng tiến độ.

Phê duyệt Đề án phát triển ngành muối

Phát triển ngành muối theo hướng hiệu quả, bền vững trên cơ sở tận dụng tối đa lợi thế của các địa phương có truyền thống sản xuất muối để nâng cao năng suất, chất lượng và đa dạng hóa các loại sản phẩm về muối nhằm đáp ứng nhu cầu muối trong nước, hướng đến xuất khẩu muối và tạo việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống của người dân làm muối.

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa ký quyết định phê duyệt Đề án phát triển ngành muối giai đoạn 2021 - 2030.

Mục tiêu đến năm 2025 tổng diện tích sản xuất muối duy trì 14.500 ha, sản lượng đạt 1.500.000 tấn/năm; đầu tư cơ sở hạ tầng sản xuất muối; máy móc, thiết bị sản xuất, chế biến muối gắn với thị trường. Phát triển sản xuất các loại muối đáp ứng nhu cầu trong nước, chú trọng hỗ trợ đồng bộ phát triển sản xuất muối chứa nhiều khoáng chất, vi chất dinh dưỡng tự nhiên với hàm lượng NaCl thấp, có lợi cho sức khỏe.

Đến năm 2030, tổng diện tích sản xuất muối 14.244 ha, sản lượng đạt 2 triệu tấn/năm, đáp ứng nhu cầu trong nước.

Đầu tư phát triển muối gắn với thị trường

Một trong các nhiệm vụ của Đề án là đầu tư phát triển sản xuất muối gắn với chế biến và thị trường. Theo đó, đầu tư phát triển sản xuất muối đồng bộ gắn với chế biến, thị trường trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 và thời kỳ tiếp theo.

Về đầu tư cơ sở hạ tầng sản xuất muối, Quyết định nêu rõ: Đầu tư cơ sở hạ tầng sản xuất muối quy mô công nghiệp đáp ứng nhu cầu ngành công nghiệp hóa chất, nguyên liệu cho chế biến muối tinh cao cấp tại các tỉnh: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.

Đối với sản xuất muối thủ công, đầu tư cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng, kiên cố hóa hệ thống thủy lợi đồng muối cho người dân sản xuất muối gắn với hỗ trợ xây dựng các mô hình chế biến, đa dạng hóa sản phẩm muối nhằm nâng cao giá trị gia tăng tại các tỉnh, thành phố: Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Định, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.

Hỗ trợ đầu tư hệ thống thiết bị chế biến, phân tích chất lượng muối, mẫu mã, bao bì cho các cơ sở sản xuất chế biến muối vừa và nhỏ đáp ứng nhu cầu thị trường; đầu tư, hỗ trợ xây dựng, nhân rộng các mô hình liên kết sản xuất muối theo chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ; mô hình thí điểm sản xuất muối kết hợp du lịch nông thôn, du lịch nghỉ dưỡng; mô hình áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất muối sạch; mô hình sản xuất muối chứa nhiều khoáng chất, vi chất dinh dưỡng tự nhiên với hàm lượng NaCl thấp, có lợi cho sức khỏe.

Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư, cải tạo nâng cấp hệ thống kho bảo quản muối, bảo đảm muối dự trữ phục vụ sản xuất kinh doanh, mua tạm trữ muối.

Nâng cao năng suất, chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm muối

Nhiệm vụ khác của Đề án là tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, chế biến muối để nâng cao năng suất, chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm muối. Trong đó, đối với sản xuất muối theo công nghệ phơi cát và phơi nước phân tán (sản xuất muối thủ công), nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ và thiết bị sản xuất muối kết tinh trên nền vật liệu mới; xây dựng mô hình liên kết sản xuất muối theo chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp với hợp tác xã, diêm dân; nghiên cứu ứng dụng công nghệ và xây dựng mô hình kết tinh muối ứng dụng hiệu ứng nhà kính nhằm giảm thiểu rủi ro do biến đổi khí hậu; nghiên cứu, hỗ trợ xây dựng thí điểm mô hình sản xuất muối kết hợp du lịch, nghỉ dưỡng tại các làng nghề muối để quảng bá và tiêu thụ muối tại đồng muối Thụy Hải (tỉnh Thái Bình); đồng muối Bạch Long (tỉnh Nam Định); đồng muối Hộ Độ, Kỳ Hà - Kỳ Anh (tỉnh Hà Tĩnh); đồng muối Sa Huỳnh (tỉnh Quảng Ngãi); đồng muối Hòn Khói (tỉnh Khánh Hòa); đồng muối Cần Giờ (thành phố Hồ Chí Minh).

Đối với sản xuất muối theo quy mô công nghệ phơi nước tập trung, nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản suất muối theo hướng cơ giới hóa, hiện đại hóa, đồng bộ các khâu từ cung cấp nước biển đế thu hoạch, vận chuyển, làm sạch và đánh đống bảo quản muối; nghiên cứu các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu; ứng dụng công nghệ mới, công nghệ thông tin trong việc đo và xử lý số liệu về nồng độ nước biển, bức xạ nhiệt, gió trong quá trình sản xuất muối.

Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm muối phù hợp với các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế và thực tiễn sản xuất, chế biến tại Việt Nam; hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sản xuất muối trực tiếp từ nước biển cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào sản xuất muối theo công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm muối tinh khiết, đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Nghiên cứu, đánh giá tiềm năng xuất khẩu muối có hàm lượng NaCl thấp, chứa nhiều khoáng chất; xúc tiến thương mại và xây dựng nhãn hiệu hàng hóa cho mặt hàng muối xuất khẩu tại các tỉnh: Nam Định, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh...

 

Tập trung triển khai một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam phía Đông

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan tập trung triển khai Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017 – 2020.

Cụ thể, tại Thông báo số 314/TB-VPCP, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải tập trung chỉ đạo để bảo đảm tiến độ khởi công trong tháng 9/2020 đối với 03 dự án được chuyển đổi theo Nghị quyết số 117/2020/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Quốc hội và Nghị quyết số 112/NQ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2020 của Chính phủ.

Đối với 5 dự án PPP, Bộ Giao thông vận tải cần phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các Ngân hàng thương mại để thu xếp nguồn vốn tín dụng. Đây là các dự án có phương án tài chính khả thi, là cơ sở quan trọng để các Ngân hàng thương mại thẩm định cho vay vốn.

Về công tác giải phóng mặt bằng, mặc dù đến nay đã cơ bản hoàn thành (trên 92%), tuy nhiên Phó Thủ tướng yêu cầu các địa phương liên quan cần tập trung để bàn giao toàn bộ mặt bằng trong tháng 9/2020.

Phấn đấu đạt được mục tiêu đầu tư trong giai đoạn tới

Để bảo đảm huy động nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu đầu tư hệ thống đường cao tốc trong giai đoạn tới, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương hoàn thiện các Nghị định hướng dẫn Luật PPP, trên nguyên tắc hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người dân.

Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư xây dựng, khắc phục các bất cập gây cản trở, làm chậm tiến độ triển khai các dự án, tăng chi phí đầu tư.

Bộ Giao thông vận tải rà soát, hoàn thiện quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, bảo đảm hệ thống đường bộ (trong đó có hệ thống đường cao tốc) đồng bộ với các loại hình giao thông khác, đáp ứng nhu cầu vận tải trong dài hạn.

Bộ Giao thông vận tải nâng cao chất lượng dự án đầu tư, từ khâu chuẩn bị đầu tư đến thực hiện đầu tư, giảm chi phí, nâng cao chất lượng công trình; nâng cao năng lực của các chủ thể tham gia như các Ban quản lý dự án, các đơn vị tư vấn, cơ quan thẩm định…

Bộ Giao thông vận tải phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính sớm xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025, trong đó ưu tiên vốn đầu tư công cho các công trình quan trọng, cấp bách, đặc biệt là tập trung vào đầu tư các tuyến đường bộ cao tốc.

Theo Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 01  tháng 3 năm 2016, mạng đường bộ cao tốc có tổng chiều dài 6.411 km, được phân thành các tuyến Bắc - Nam phía Đông, tuyến Bắc - Nam phía Tây, các khu vực phía Bắc, Trung, Nam và các tuyến đường vành đai Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 đã định hướng đến năm 2020 hoàn thành đưa vào sử dụng khoảng 2.000 km đường cao tốc. Tuy nhiên, đến nay mới chỉ hoàn thành đưa vào khai thác trên 1.000 km và đang triển khai xây dựng 784 km (trong đó có 654 km thuộc Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020); trên tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông vẫn còn 659 km chưa được đầu tư. Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc sớm đầu tư hệ thống đường bộ cao tốc kết nối các vùng kinh tế trọng điểm là hết sức cần thiết và cấp bách. Ngoài các dự án đang triển khai đầu tư, giai đoạn 2021-2025 cần phải đầu tư từ 1.300km đến 1.500 km đường cao tốc, phấn đấu đến năm 2030 đưa 5.000 km vào khai thác sử dụng.

Hiện nay, Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP) đã được Quốc hội ban hành. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thu hút nguồn lực xã hội hóa cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nói chung và hệ thống đường bộ cao tốc nói riêng. Theo quy định của Luật PPP, tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án PPP không quá 50% tổng mức đầu tư của dự án. Như vậy, ngoài nguồn vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư, nguồn vốn tín dụng chiếm tối thiểu 35% tổng mức đầu tư dự án. Vì vậy, để các Ngân hàng thương mại xem xét cung cấp tín dụng thì dự án phải thực sự có hiệu quả, có khả năng hoàn vốn và trả nợ vốn vay. Do đó, cần phải bảo đảm huy động nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu đầu tư trong giai đoạn tới./.

 

 

Print
851 Rate this article:
No rating

Thư viện ảnh

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ - VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO - TỔNG CỤC THỂ DỤC THỂ THAO
Người chịu trách nhiệm chính: PGS.TS. Nguyễn Danh Hoàng Việt
Địa chỉ: 141 Nguyễn Thái Học - Ba Đình - Hà Nội * Điện thoại: (84-4) 733 0286 * FAX: (84-4) 733 4419
Website: vkhtdtt.vn; Email: banbientap.vkhtdtt@gmail.com

 

Close Copyright [2018] by TTTT
Back To Top