Responsive image

Chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 04/1

Thông tin báo chí chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 04/1

THÔNG TIN BÁO CHÍ

THÔNG TIN CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Phê chuẩn Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh

Tại Quyết định 1864/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu bổ sung chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh nhiệm kỳ 2016 - 2021 đối với ông Lê Văn Hẳn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy Trà Vinh.

Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Lâm Đồng

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Lâm Đồng đến năm 2035 và tầm nhìn đến năm 2050.

Mục tiêu Quy hoạch là xây dựng và phát triển vùng tỉnh Lâm Đồng đến năm 2035 và tầm nhìn đến năm 2050 trở thành vùng kinh tế động lực của khu vực Tây Nguyên, có hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, theo hướng hiện đại; là trung tâm nghiên cứu và sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tầm quốc gia và quốc tế, phát triển công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản.

Phạm vi lập quy hoạch toàn tỉnh Lâm Đồng, diện tích tự nhiên 9.783,34 km2 bao gồm 12 đơn vị hành chính: Thành phố Đà Lạt, thành phố Bảo Lộc và 10 huyện (Lạc Dương, Đơn Dương, Đức Trọng, Lâm Hà, Đam Rông, Di Linh, Bảo Lâm, Đạ Huoai, Đạ Tẻh và Cát Tiên).

Đến 2025 toàn tỉnh có 19 đô thị

Đến năm 2025, toàn tỉnh có 19 đô thị, trong đó 1 đô thị loại I (thành phố Đà Lạt), 1 đô thị loại II (thành phố Bảo Lộc), 6 đô thị loại IV (Đức Trọng, Thạnh Mỹ, Đinh Văn, Di Linh, Lộc Thắng, Mađaguôi) và 11 đô thị loại V (Lạc Dương, Đ'ran, Bằng Lăng, Đạ Rsal, Nam Ban, Lộc An, Hòa Ninh, Đạ Mri, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Phước Cát).

Trong đó, thành phố Đà Lạt là đô thị loại I, đáp ứng các tiêu chí của thành phố trực thuộc trung ương, cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế Nam Tây Nguyên.

Về đô thị trung tâm tiểu vùng, thành phố Bảo Lộc là đô thị hạt nhân phía Nam tỉnh Lâm Đồng; trung tâm Dịch vụ - Thương mại hỗn hợp; Trung tâm Văn hóa thể thao cấp quốc gia; Trung tâm nông nghiệp chuyên canh theo hướng công nghệ cao; Trung tâm Dịch vụ du lịch cấp vùng và quốc gia; Trung tâm y tế và giáo dục - đào tạo cấp vùng; trung tâm nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe cấp vùng và quốc gia;...

Đô thị Di Linh là trung tâm hành chính, chính trị của huyện Di Linh. Trung tâm thương mại dịch vụ cấp vùng, trung chuyển hàng hóa trong tỉnh và vùng Tây Nguyên, vùng duyên hải Nam Trung Bộ.

Đô thị theo chức năng tổng hợp gồm đô thị Đức Trọng, Lạc Dương, Thạnh Mỹ, Đinh Văn, Lộc Thắng, Ma đaguôi, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Bằng Lăng. Trong đó đô thị Đức Trọng là cửa ngõ giao thương quốc tế của vùng và quốc gia; trung tâm nghiên cứu và sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tầm quốc gia và quốc tế; trung tâm công nghiệp dược, mỹ phẩm cấp vùng.

Đô thị chuyên ngành, đô thị mới cấp huyện gồm: Đô thị Nam Ban, Đ'ran, Đạ Mri, Hòa Ninh, Phước Cát, Đạ Rsal.

Phát triển nông nghiệp theo hướng tiếp cận đa ngành

Về định hướng phát triển vùng nông nghiệp, theo quy hoạch, sẽ phát triển ngành nông nghiệp theo hướng tiếp cận đa ngành. Lâm Đồng là trung tâm nghiên cứu, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của cả nước; vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa có giá trị cao trên thị trường quốc tế. Trọng tâm là 4 mục tiêu hướng đến: 1- Xây dựng thương hiệu số một Việt Nam; 2- Xây dựng cụm sản xuất rau hoa số một Đông Nam Á; 3- Xây dựng điểm du lịch nông nghiệp số một Việt Nam; 4- Hình thành trung tâm đào tạo nhân lực và nghiên cứu nông nghiệp chủ lực tại Tây Nguyên.

Hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao, các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, gắn với phát triển làng hoa, làng nghề truyền thống, xây dựng làng đô thị xanh và phát triển các mô hình du lịch nông nghiệp.

Vùng nông nghiệp gồm: Vùng chuyên canh rau, hoa ở Đà Lạt, Đơn Dương, Đức Trọng, Lạc Dương, Lâm Hà, sản xuất nấm thực phẩm cao cấp và nấm dược liệu. Vùng trồng lúa ở Cát Tiên, Đạ Tẻh, Lâm Hà; vùng chuyên canh chè ở Bảo Lâm, Bảo Lộc, Di linh, Đạ Huoai, Đà Lạt, Lâm Hà, Đạ Tẻh. Vùng chuyên canh cà phê: cà phê vối tại Di Linh, Bảo Lâm, Lâm Hà, Đức Trọng, Bảo Lộc, cà phê chè tại Lạc Dương, Đam Rông, Lâm Hà, Đà Lạt, vùng trồng cà phê công nghệ cao. Trồng cây mắc ca ở Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lâm, Đức Trọng, Đơn Dương, Đam Rông, Bảo Lộc; vùng trồng cây ăn quả ở Bảo Lâm, Đạ Huoai, Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh;..

Phát triển chăn nuôi tập trung theo mô hình trang trại công nghiệp, trong đó chăn nuôi bò sữa tập trung ở Đơn Dương, Đức Trọng, Lâm Hà, Di Linh, Bảo Lâm, Bảo Lộc; bò thịt ở Đam Rông, Lâm Hà, Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lâm, Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Bảo Lộc. Chăn nuôi heo ở Đam Rông, Lâm Hà, Đơn Dương,...

Xây dựng Vĩnh Long phát triển toàn diện nông, công nghiệp và dịch vụ hiện đại

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1824/QĐ-TTg phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Mục tiêu nhằm tập trung phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng cách và trình độ phát triển chung của cả nước; xây dựng Vĩnh Long phát triển toàn diện nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ hiện đại, có ngành dịch vụ du lịch phát triển mạnh, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đồng bộ, kết nối tốt với vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước; quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, đời sống người dân được cải thiện; quốc phòng an ninh được đảm bảo, trật tự xã hội được giữ vững.

Vĩnh Long phấn đấu tổng sản phẩm địa phương (GRDP) đến năm 2020 chiếm tỷ trọng khoảng 6%-7% của vùng đồng bằng sông Cửu Long và chiếm khoảng 1%-2% của cả nước; thu nhập bình quân đầu người đến năm 2020 khoảng 1.950 USD. Tỷ trọng nông lâm nghiệp, thủy sản chiếm 28%, công nghiệp - xây dựng chiếm 25,6%, dịch vụ chiếm 46,4% trong cơ cấu kinh tế vào năm 2020; xuất khẩu đến năm 2020 đạt khoảng 530 triệu USD.

Tăng trưởng nhanh ngành công nghiệp ứng dụng công nghệ tiên tiến

Về phương hướng phát triển các ngành và lĩnh vực, Vĩnh Long sẽ phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ thích ứng với biến đổi khí hậu, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, nước; phát triển các sản phẩm lúa chất lượng cao; chuyển từ chăn nuôi quy mô nhỏ sang quy mô lớn; tiếp tục khai thác hiệu quả những lợi thế hiện có của ngành thủy sản, khôi phục, đưa ngành thủy sản thành thế mạnh.

Về công nghiệp, xây dựng khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, tăng trưởng nhanh ngành công nghiệp ứng dụng công nghệ tiên tiến, tạo ra các sản phẩm có chất lượng, giá trị gia tăng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, bảo vệ môi trường. Các ngành công nghiệp chính: Phát triển và mở rộng công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm và đồ uống; sản xuất vật liệu xây dựng; công nghiệp dệt may, da giày; công nghiệp hóa chất, dược phẩm và thiết bị y tế...

Về thương mại, dịch vụ, tỉnh Vĩnh Long phát triển các ngành dịch vụ, thương mại văn minh, hiện đại với sự tham gia của các thành phần kinh tế; phát huy vai trò của thương mại trong định hướng, thúc đẩy sản xuất phát triển, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng phong phú của người dân; tăng cường xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao; phát triển du lịch sinh thái, đa dạng sản phẩm, loại hình...

Danh mục gồm 151 chương trình, đề án, dự án ưu tiên nghiên cứu đầu tư cũng được ban hành kèm theo Quy hoạch. Trong đó có 03 dự án do Trung ương đầu tư, 48 chương trình, đề án do tỉnh quản lý, 100 dự án kêu gọi đầu tư ngoài. Các chương trình, dự án này được thực hiện theo 2 giai đoạn: Giai đoạn 2016 -2020 và giai đoạn 2020-2030.

Phấn đấu hoàn thành lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở 3 cấp

Phấn đấu hoàn thành bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, tiến tới công bố dữ liệu quốc gia về liệt sĩ, thân nhân liệt sĩ, mộ liệt sĩ và nghĩa trang liệt sĩ; cơ bản hoàn thành việc lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở 3 cấp (xã, huyện, tỉnh) trong phạm vi toàn quốc.

Đó là mục tiêu giai đoạn 2019-2020 được nêu trong thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, tại Hội nghị toàn quốc sơ kết thực hiện Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ giai đoạn  2016-2018 và Đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin giai đoạn 2017-2018; phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp giai đoạn 2019-2020.

Thông báo kết luận nêu rõ, từ năm 2016 đến nay, các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị từ trung ương đến cơ sở tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, tích cực, hiệu quả Chỉ thị 24 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 14 của Ban Bí thư, Quyết định 1237 và Quyết định 150 của Thủ tướng Chính phủ; triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt và đạt hiệu quả thiết thực: Đã tìm kiếm, quy tập được 5.886 hài cốt liệt sĩ; xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin 759 trường hợp...

Bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế nhất định cần được rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục kịp thời trong thời gian tới.

Phó Thủ tướng yêu cầu trong thời gian tới, Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm, quy tập và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ khẩn trương cập nhật, liên thông dữ liệu về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; phát huy hiệu quả Cổng Thông tin điện tử về liệt sĩ, mộ liệt sĩ và nghĩa trang liệt sĩ.

Đồng thời ưu tiên tập trung các nguồn lực cho công tác tìm kiếm, quy tập và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin; nhất là các địa bàn trọng điểm; tăng cường quan tâm, chăm lo công tác hậu phương quân đội; xây dựng, tu bổ, sửa chữa các nghĩa trang liệt sĩ còn thiếu thông tin, công trình ghi công liệt sĩ.

Mục tiêu giai đoạn 2019-2020: Phấn đấu hoàn thành bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, tiến tới công bố dữ liệu quốc gia về liệt sĩ, thân nhân liệt sĩ, mộ liệt sĩ và nghĩa trang liệt sĩ; cơ bản hoàn thành việc lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở 3 cấp (xã, huyện, tỉnh) trong phạm vi toàn quốc. Hoàn thành Quy trình xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin và triển khai thực hiện Trung tâm lưu trữ cơ sở dữ liệu ADN và các cơ sở giám định ADN. Mỗi năm tìm kiếm, quy tập được khoảng 1.500-2.000 hài cốt liệt sĩ; xác định danh tính khoảng 550 hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin.

Để thực hiện mục tiêu trên, Phó Thủ tướng giao Bộ Quốc phòng tăng cường chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở trong nước, nhất là các địa phương thuộc địa bàn trọng điểm; chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ rà phá bom, mìn để tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương.

Bộ Quốc phòng chủ trì, đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành và sớm triển khai thực hiện Quy trình xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin; nhất là quy trình thực chứng để xác minh, kết luận số mộ liệt sĩ trong nghĩa trang liệt sĩ còn thiếu một phần thông tin.

Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội hoàn thành xây dựng Trung tâm lưu trữ cơ sở dữ liệu ADN; các cơ sở giám định ADN; chỉ đạo chặt chẽ việc lấy mẫu sinh phẩm thân nhân liệt sĩ, mẫu hài cốt liệt sĩ để giám định ADN và sớm trả kết quả; tránh yếu tố tự phát, chờ đợi lâu làm ảnh hưởng tới tâm lý xã hội.

Giao kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018 (đợt 4)

Thủ tướng Chính phủ quyết định giao kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018 (đợt 4) cho công tác chuẩn bị đầu tư một số dự án thành phần thuộc Dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 với mức 127,131 tỷ đồng.

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư căn cứ danh mục dự án và tổng số kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018 (đợt 4) được giao, quyết định giao cho Bộ Giao thông vận tải danh mục và chi tiết mức vốn của các dự án; thực hiện các quy định tại khoản 1 Điều 4 Quyết định số 2131/QĐ-TTg ngày 29/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018; chịu trách nhiệm toàn diện trước Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan thanh tra, kiểm toán về tính chính xác của các thông tin, số liệu và mức vốn phân bổ cho các dự án.

Giao Bộ Tài chính thực hiện quy định tại điểm b khoản 2 Điều 4 Quyết định số 2131/QĐ-TTg ngày 29/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018.

Căn cứ kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018 (đợt 4) được giao, Bộ Giao thông vận tải giao danh mục và mức vốn cụ thể của từng dự án theo quy định cho các đơn vị trực thuộc để thực hiện; báo cáo kết quả giao, thông báo kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018 (đợt 4) gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính trước ngày 15/1/2019.

Bên cạnh đó, định kỳ hằng tháng, quý và cả năm báo cáo tình hình thực hiện và giải ngân kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018 theo quy định; chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin về các dự án đầu tư nguồn vốn trái phiếu Chính phủ do Bộ quản lý. Trường hợp phát hiện các thông tin không chính xác, phải kịp thời gửi báo cáo cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ.

Xây dựng KKT Vân Đồn trở thành đô thị biển đảo xanh, hiện đại

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội Khu kinh tế (KKT) Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Mục tiêu tổng quát đến năm 2030, xây dựng Khu kinh tế Vân Đồn trở thành đô thị biển đảo xanh, hiện đại, thông minh, là trung tâm kinh tế và văn hóa của khu vực.

Mục tiêu cụ thể, đến năm 2030, tổng giá trị sản xuất đạt 5,6 tỷ USD, tương ứng GRDP đạt 1,6 tỷ USD; đóng góp vào ngân sách nhà nước trên 10% giá trị xuất khẩu.

Tốc độ tăng dân số trung bình trong các giai đoạn đến 2020, 2021 – 2025, 2026 – 2030 tương ứng là 6%, 11% và 8%. Quy mô dân số tăng từ 52 nghìn người năm 2019 lên 140 nghìn người vào năm 2030. Đến năm 2030, tạo khoảng 89 nghìn việc làm; phát triển mạng lưới y tế đồng bộ, phấn đấu đến năm 2030 đạt 15 bác sỹ/1 vạn dân và 03 dược sỹ/1 vạn dân.

Mục tiêu đến 2050, xây dựng và phát triển KKT Vân Đồn trở thành một trong những vùng động lực phát triển kinh tế của Việt Nam, nằm trong nhóm dẫn đầu về thành phố đáng sống của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương; là trung tâm kinh tế năng động, tập trung vào du lịch, sản xuất sản phẩm cao cấp và dịch vụ; phấn đấu là thành phố hiện đại, thông minh, một nơi hấp dẫn để mọi người đến sinh sống, làm việc và vui chơi hòa hợp với thiên nhiên.

Khai thác hiệu quả tiềm năng di sản thiên nhiên thế giới

Về định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực, đối với du lịch, khai thác có hiệu quả tiềm năng về di sản thiên nhiên thế giới trong khu vực, di sản văn hoá truyền thống. Đồng thời, tạo lập môi trường du lịch thân thiện, hấp dẫn kết hợp với xây dựng và hoàn thiện hệ thống hạ tầng du lịch đồng bộ để phát triển ngành du lịch. Phấn đấu đến năm 2030 thu hút khoảng 2,5 triệu lượt khách du lịch, trong đó có trên 170 nghìn người nước ngoài đến Vân Đồn.

Về dịch vụ hiện đại, Vân Đồn tập trung phát triển và kinh doanh cảng hàng không, vận tải hàng không cũng như đẩy mạnh phát triển ngành logistics để đưa Vân Đồn trở thành một trung tâm cung cấp dịch vụ hậu cần đẳng cấp thế giới, trở thành cửa ngõ trung chuyển hàng hoá vào khu vực Đông Nam Á. Phấn đấu đến năm 2030 đưa Vân Đồn trở thành Trung tâm tài chính phát triển của khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Phát triển không gian đô thị hiện đại tầm cỡ quốc tế

Theo Quy hoạch, tổ chức không gian phát triển và phân vùng phát triển đô thị theo hướng linh hoạt, phù hợp với điều kiện phát triển trong từng giai đoạn; phát triển không gian đô thị theo hướng đô thị hiện đại tầm cỡ quốc tế

Cụ thể, không gian đô thị của Vân Đồn chia ra 3 phần. Trong đó, không gian đô thị đảo Cái Bầu gồm các KKT phía Tây, ven biển phía Bắc; thành phố sân bay - khu thương mại tự do, khu nghỉ mát phức hợp, thị trấn Cái Rồng và bán đảo Cổng chào.

Không gian đô thị Quần đảo Vân Hải gồm: Công viên; du lịch nông nghiệp; các khu dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng và hòn đảo du lịch trong tương lai.

Không gian đô thị trung tâm gồm: Trung tâm hành chính - đô thị trung tâm Cái Rồng; khu công nghiệp sáng tạo; khu công nghệ sinh học; khu dịch vụ sáng tạo; khu sản xuất tiên tiến và hậu cần; khu chế tạo; khu sân bay; khu thương mại tự do; khu thung lũng công nghệ; trung tâm tài chính; khu tái định cư; trung tâm triển lãm văn hoá; khu du lịch và dịch vụ vui chơi giải trí; cảng biển du lịch và cảng cá, hồ cảnh quan...

Bổ sung 2 dây chuyền sản xuất xi măng vào Quy hoạch

Thủ tướng Chính phủ đồng ý bổ sung 2 dây chuyền sản xuất xi măng bền sunfat của Nhà máy xi măng Thành Thắng, tỉnh Hà Nam vào Quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến năm 2030.

Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ đồng ý bổ sung 2 dây chuyền Nhà máy xi măng Thành Thắng, tỉnh Hà Nam (dây chuyền số 4 và số 5), mỗi dây chuyền có công suất là 2,3 triệu tấn xi măng/ năm kết hợp xử lý rác thải bảo vệ môi trường và tạo ra các sản phẩm xi măng chất lượng cao, xi măng chịu mặn bền sunfat phục vụ xây dựng các công trình ven biển và hải đảo vào Quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến năm 2030, thời gian đưa vào vận hành dây chuyền số 4 sau năm 2021 và dây chuyền số 5 sau năm 2025.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Xây dựng tích hợp nội dung bổ sung 2 dây chuyền trên vào Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 59 Luật quy hoạch.

Đồng thời, Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND tỉnh Hà Nam giám sát triển khai thực hiện Dự án đầu tư 2 dây chuyền trên theo đúng quy định về đầu tư, xây dựng, môi trường, sản phẩm và các quy định có liên quan.

Đảm bảo hệ thống thống kê bộ, ngành hoạt động thông suốt

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ yêu cầu các Bộ ngành, địa phương tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo lập đầy đủ cơ chế chính sách, môi trường pháp lý để hệ thống thống kê bộ, ngành hoạt động đồng bộ, thông suốt và bảo đảm tính nhất quán.

Trong thời gian qua, các bộ, ngành và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) đã đạt được những kết quả quan trọng trong triển khai công tác thống kê. Cụ thể, khung khổ thể chế cho hoạt động thống kê được tăng cường và tương đối đầy đủ; hệ thống thống kê tập trung từ Trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện đã được củng cố, kiện toàn về nhân lực và cơ sở vật chất, vận dụng nhiều phương pháp mới trong tính toán số liệu thống kê; sự phối hợp và chia sẻ thông tin giữa tổng cục Thống kê với bộ, ngành đã có những bước tiến mới; sản phẩm thống kê ngày càng đa dạng hơn, chất lượng và độ tin cậy của thông tin thống kê được nâng cao...

Bên cạnh những kết quả đạt được ở trên, công tác thống kê bộ, ngành thời gian còn một số hạn chế, bất cập: Nhận thức về vai trò của công tác thống kê ở một số bộ, ngành còn bị xem nhẹ; sự hợp tác phối hợp, trao đổi thông tin giữa các bộ, ngành với Tổng cục Thống kê và giữa các bộ, ngành với nhau còn chưa thường xuyên, hiệu quả cao...

Chính vì vậy, Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành và Tổng cục Thống kê tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Thống kê, Chiến lược phát triển Thống kê Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, các Đề án lớn của ngành Thống kê; tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo lập đầy đủ cơ chế chính sách, môi trường pháp lý để hệ thống thống kê bộ, ngành hoạt động đồng bộ, thông suốt và bảo đảm tính nhất quán.

Đồng thời, tiếp tục nâng cao nhận thức của lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, các đối tượng sử dụng thông tin thống kê và bản thân những người làm công tác thống kê về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành Thống kê trong công tác quản lý và điều hành kinh tế - xã hội, thực hiện các nhiệm vụ về quốc phòng - an ninh, công tác đối ngoại và các nhiệm vụ khác của đất nước.

Các bộ, ngành và địa phương tiến hành kiểm kê, đánh giá đầy đủ các nguồn lực, bao gồm nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của toàn bộ nền kinh tế và của từng địa phương. Năm 2020 tiến hành rà soát, kiểm kê, đánh giá các nguồn lực của nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.  

Đồng thời, khẩn trương hoàn thành việc sửa đổi, ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê, chế độ báo cáo thống kê cấp bộ, ngành phù hợp với quy định của Luật Thống kê; thực hiện nghiêm túc Chế độ báo cáo thống kê cấp quốc gia quy định tại Nghị định số 60/2018/NĐ-CP ngày 20/4/2018 của Chính phủ; Chương trình điều tra thống kê quốc gia ban hành theo Quyết định số 43/2016/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ.

Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành theo chức năng, nhiệm vụ được phân công cần triển khai tốt cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, đặc biệt là 3 bộ tổ chức điều tra riêng là: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao. Bộ Thông tin và Truyền thông đảm bảo tốt công tác thông tin, tuyên truyền cho cuộc Tổng điều tra.

Các bộ, các ngành phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) thực hiện tốt nhiệm vụ điều tra thống kê, thực hiện bộ chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của doanh nghiệp, công bố Sách trắng về tình hình doanh nghiệp Việt Nam hàng năm.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông

Phó Thủ tướng yêu cầu phải tăng cường kết hợp chế độ báo cáo thống kê với điều tra thống kê và khai thác dữ liệu hành chính; phân tích, dự báo tình hình kinh tế vĩ mô; đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ có hệ thống từ trung ương xuống tới các cơ sở ở địa phương để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm thông tin thống kê phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, thông tin phục vụ công tác quản lý, điều hành của bộ, ngành; hoàn thiện hệ thống dữ liệu thông tin về các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước, nhất là trong điều kiện chuyển đổi mô hình về cơ quan đại diện chủ sở hữu.

Hoạt động phổ biến thông tin thống kê cần thực hiện theo hướng đa dạng hóa hình thức phổ biến; chủ động nắm bắt nhu cầu thông tin và cung cấp, phổ biến kịp thời thông tin thống kê đến đông đảo người sử dụng. Các bộ, ngành thực hiện nghiêm việc xây dựng và ban hành Quy chế phổ biến thông tin thống kê, Lịch phổ biến thông tin thống kê thuộc phạm vi ngành, lĩnh vực quản lý; đẩy mạnh hoạt động phối hợp, trao đổi, chia sẻ thông tin giữa bộ, ngành với Tổng cục Thống kê và giữa các bộ, ngành với nhau.

Phó Thủ tướng cũng yêu cầu tăng cường phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong công tác thống kê theo Quyết định số 501/QĐ-TTg ngày 10/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong Hệ thống thống kê Nhà nước giai đoạn 2017-2025, tầm nhìn đến 2030. Trong đó có một số nhiệm vụ quan trọng: (i) Sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thống kê quốc gia, kết nối với hệ thống thông tin thống kê bộ, ngành, địa phương; (ii) Sử dụng công nghệ thông minh thay thế phiếu điều tra giấy trong các cuộc điều tra thống kê; (iii) Tích hợp, tiếp nhận hoàn chỉnh các dữ liệu hành chính của một số Bộ, ngành để biên soạn các chỉ tiêu thống kê; (iv) Ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn để hiện đại hóa, giảm chi phí, nâng cao chất lượng và tăng cường khả năng dự báo; (v) Phổ biến thông tin thống kê theo tiêu chuẩn tiên tiến, hiện đại; (vi) Nâng cấp một cách căn bản hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông...

Nâng cao hiệu quả đầu tư công

Tại Văn bản trả lời chất vấn của Đại biểu Thạch Phước Bình (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Trà Vinh), Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết, trong thời gian tới Chính phủ đưa ra nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả đầu tư công.

Nhìn chung, trong giai đoạn 2011 - 2015 hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư nói chung và đầu tư công nói riêng đã được cải thiện. Hệ số suất đầu tư (ICOR) của Việt Nam đã giảm dần trong từng giai đoạn. Nếu so sánh với giai đoạn trước, những năm đầu giai đoạn 2016 - 2020 hệ số ICOR có xu hướng cao hơn, cụ thể: ICOR bình quân (tính theo giá so sánh năm 2010) năm 2016 là 6,41, năm 2017 giảm nhẹ còn 6,21, giai đoạn 2011 - 2015 đạt 5,05, giai đoạn 2006 - 2010 là 5,18.

Tuy nhiên, hệ số ICOR thường tính theo khoảng thời gian hay theo từng giai đoạn, còn phụ thuộc vào các yếu tố như sự thay đổi công nghệ hay tỷ lệ kết hợp giữa vốn và lao động. Hiệu quả đầu tư thể hiện bằng hệ số ICOR được cơ quan thống kê Việt Nam tính toán cho toàn bộ nền kinh tế bao gồm đầu tư công, đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Hệ số ICOR không tính theo thành phần kinh tế, do vốn đầu tư công chủ yếu được đầu tư cho cơ sở hạ tầng, không mang lại lợi nhuận trực tiếp mà gián tiếp thúc đẩy tăng trưởng. Do vậy không thể đánh giá hệ số ICOR tăng vọt là do đầu tư công kém hiệu quả. Tùy từng giai đoạn mà hệ số ICOR có sự tăng giảm theo đặc trưng của nền kinh tế hay các ảnh hưởng trong phạm vi quốc gia và ảnh hưởng của thương mại quốc tế. Trong thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, trong đó có đầu tư công như ban hành Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý nợ công,... Chính những nỗ lực này đã góp phần hạn chế đầu tư dàn trải, nâng cao hiệu quả đầu tư. Không chỉ có khu vực đầu tư công mà các khu vực khác như FDI, tư nhân,... Chính phủ cũng đưa ra nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất từ đó giảm hệ số ICOR. Do vậy trong những năm gần đây, tỷ lệ vốn đầu tư công chiếm trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đang có xu hướng thấp đi, tăng tỷ lệ vốn đầu tư từ khu vực tư nhân và khu vực đầu tư nước ngoài, đầu tư công sẽ đóng vai trò là nguồn vốn mồi, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tư.

Những tồn tại, hạn chế trong đầu tư công là do nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do tác động ảnh hưởng từ những biến động xấu của tình hình chính trị, kinh tế thế giới, tình hình kinh tế trong nước suy giảm, tổng cầu yếu, dẫn đến việc huy động các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác phục vụ cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội gặp nhiều khó khăn; Các tồn tại, bất cập về đầu tư công trong giai đoạn trước chưa thể xử lý dứt điểm ngay trong ngắn hạn; Các dự án, chương trình cũ, tồn đọng từ trước vẫn cần phải tiếp tục xử lý, sắp xếp; Nhu cầu vốn đầu tư rất lớn, trong khi khả năng cân đối vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước giảm mạnh, không đáp ứng được yêu cầu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội;...

Nguyên nhân chủ quan là do thể chế pháp luật về đầu tư công chưa thực sự đồng bộ, thống nhất, và hoàn thiện; chưa khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo giữa các quy định tại các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư công; vẫn còn lúng túng trong việc triển khai Luật Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn, cách hiểu và cách tiếp cận thực hiện của các bộ, ngành và địa phương còn khác nhau, dẫn đến mất nhiều thời gian để thống nhất cách tiếp cận, đặc biệt trong vấn đề hoàn thiện thủ tục các dự án đầu tư công.

Chất lượng chuẩn bị dự án chưa tốt còn một số bộ, ngành trung ương và địa phương phê duyệt dự án chưa bảo đảm đầy đủ các quy định hiện hành, đặc biệt các quy định chỉ được phép lập và phê duyệt dự án khi đã xác định được khả năng cân đối nguồn vốn. Trong công tác chuẩn bị đầu tư, vẫn còn tình trạng một số dự án chuẩn bị đầu tư và phê duyệt dự án chỉ mang tính hình thức để có điều kiện ghi vốn. Khi dự án đã được quyết định đầu tư và bố trí vốn mới thực sự tiến hành chuẩn bị đầu tư, nên chưa thể tiến hành thi công và giải ngân hết số vốn kế hoạch được giao.

Chất lượng của các loại quy hoạch còn thấp, tính dự báo còn hạn chế, thiếu tính liên kết, đồng bộ gây lãng phí và kém hiệu quả đầu tư đối với một số dự án hạ tầng.

Công tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều trở ngại, vướng mắc, mất nhiều thời gian nên làm chậm tiến độ của hầu hết các dự án. Nhiều dự án phải điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư do chi phí giải phóng mặt bằng tăng cao, gây khó khăn trong việc cân đối vốn và hoàn thành dự án theo đúng tiến độ.

Việc chấp hành các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn kế hoạch ở một số bộ, ngành, địa phương chưa nghiêm, dẫn đến phải bổ sung, sửa đổi phương án phân bổ vốn nhiều lần, ảnh hưởng đến tiến độ giao kế hoạch đầu tư phát triển. Công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra chưa được quan tâm đúng mức...

Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công

Để nâng cao hiệu quả đầu tư công, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng, trong thời gian tới phải nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công; nghiêm túc triển khai thực hiện các quy định pháp luật về đầu tư công; khẩn trương rà soát, sửa đổi, những quy định của pháp luật về đầu tư công còn vướng mắc trong quá trình thực hiện tại Luật Đầu tư công và các nghị định hướng dẫn thi hành.

Đồng thời, tăng cường quản lý đầu tư công, chú trọng nâng cao hiệu quả công tác chuẩn bị đầu tư; tăng cường công tác rà soát để bảo đảm các chương trình, dự án bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm phải có đầy đủ các thủ tục đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công; quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn dự phòng trong kế hoạch đầu tư công trung hạn. Khoản vốn dự phòng chỉ được sử dụng cho các mục tiêu thật sự cần thiết, cấp bách theo quy định của Luật Đầu tư công, Nghị quyết của Quốc hội và các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công, không được sử dụng vốn dự phòng cho các dự án không đúng quy định. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành và các địa phương trong triển khai thực hiện. Chú trọng công tác theo dõi, đánh giá thực hiện kế hoạch đầu tư công và thực hiện các chương trình, dự án đầu tư cụ thể. Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công định kỳ hoặc đột xuất theo chế độ báo cáo quy định; trong đó, phải đánh giá kết quả thực hiện, những tồn tại, hạn chế và đề xuất kiến nghị các cấp có thẩm quyền giải quyết những khó khăn, vướng mắc.  Theo dõi, đôn đốc (chủ đầu tư, Ban quản lý dự án, nhà thầu) đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân dự án. Kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong triển khai kế hoạch đầu tư công, thực hiện dự án. Chủ động báo cáo cấp có thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch đầu tư trung hạn, hằng năm để thúc đẩy giải ngân và nâng cao hiệu quả đầu tư.

Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Trong đó, đối với vốn đầu tư công: tập trung đầu tư cho các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án quan trọng quốc gia, các chương trình mục tiêu và dự án trọng điểm, có ý nghĩa lớn, lan tỏa đến phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và liên vùng, liên địa phương. Đối với các nguồn vốn vay để đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (ODA, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước,...): Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, quy mô lớn và hiện đại; phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức.

Về đầu tư khu vực tư nhân và dân cư, khuyến khích đầu tư tăng cường trang thiết bị có công nghệ tiên tiến, ứng dụng công nghệ cao, đầu tư phát triển những sản phẩm có giá trị cao; đầu tư vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, công nghiệp phụ trợ,... Khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư chiều sâu các cơ sở nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong đó đặc biệt chú trọng đầu tư chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ cho sản xuất nông nghiệp.

Đối với FDI, thu hút chọn lọc các dự án có chất lượng, công nghệ cao, thân thiện môi trường, sản phẩm có sức cạnh tranh và phù hợp với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế của từng ngành, từng vùng; đặc biệt thu hút các dự án quy mô lớn, sản phẩm cạnh tranh cao tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu thế giới. Chuyển dần thu hút vốn FDI với lợi thế giá nhân công rẻ sang cạnh tranh bằng nguồn nhân lực chất lượng cao.

Mở rộng các hình thức đầu tư, tiếp tục rà soát để đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, thu hút các nhà đầu tư tham gia đầu tư.

Đồng thời, tạo đột phá thu hút vốn đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP); đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa đối với các dịch vụ công cộng, đặc biệt trong các lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục đào tạo, văn hóa, thể thao, các công trình dự án cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân ở nông thôn; huy động nguồn lực đất đai và tài nguyên cho đầu tư phát triển.

Xử lý triệt để hành vi buôn bán trái phép động vật hoang dã

Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh giao các Bộ: Công an, Quốc phòng, Tài chính, Công Thương chỉ đạo các lực lượng trực thuộc tiếp tục tăng cường kiểm soát, điều tra, bắt giữ, xử lý triệt để đối với các hành vi buôn bán, vận chuyển trái pháp luật động vật, thực vật hoang dã theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị 28/CT-TTg ngày 17/9/2016 về một số giải pháp cấp bách phòng ngừa, đấu tranh với hành vi xâm hại các loài động vật hoang dã trái pháp luật.

Nghiên cứu tiền khả thi Dự án Bến cảng Liên Chiểu (TP Đà Nẵng)

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giao Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thẩm định Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư xây dựng Bến cảng Liên Chiểu theo quy định của pháp luật, trong đó cần so sánh các phương án tổ chức giao thông đến Bến cảng Tiên Sa và Bến cảng Liên Chiểu để chọn phương án tối ưu.

Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng tại cuộc họp về những vướng mắc trong quá trình lập, thẩm định Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư xây dựng Bến cảng Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

Thông báo nêu rõ, Theo điều chỉnh Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Cảng biển Đà Nẵng là cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực (Loại I); về lâu dài có khả năng phát triển để đảm nhận vai trò cửa ngõ quốc tế ở khu vực miền Trung (Loại IA). Cảng biển Đà Nẵng gồm một số khu bến cảng chính, như: Khu bến Tiên Sa, Khu bến Liên Chiểu.

Khu bến Tiên Sa là khu bến cảng tổng hợp, container phục vụ thành phố Đà Nẵng, một phần Bắc Tây Nguyên và hàng quá cảnh của Lào, Đông Bắc Thái Lan, tiếp nhận tàu có trọng tải từ 30.000 - 50.000 tấn, tàu container có sức chở đến 4.000 TEU, tàu khách du lịch quốc tế có tổng dung tích 100.000 GT và lớn hơn với ga hành khách đồng bộ, hiện đại.

Khu bến Liên Chiểu, trước mắt có chức năng chính là chuyên dùng hàng rời, hàng lỏng phục vụ trực tiếp các cơ sở công nghiệp dịch vụ tại đây. Về lâu dài (sau năm 2020) sẽ từng bước phát triển để đảm nhận vai trò khu bến chính của cảng cửa ngõ quốc tế tại khu vực miền Trung (nếu có điều kiện), tiếp nhận tàu có trọng tải 100.000 tấn, tàu container có sức chở từ 6.000 - 8.000 TEU.

Thực tế, Khu bến cảng Tiên Sa chỉ đạt công suất khai thác khoảng 6 triệu tấn/năm, do chịu áp lực lớn về giao thông kết nối, ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác, sử dụng bến cảng và không đạt được công suất khai thác theo quy hoạch đã được phê duyệt. Do đó, cần phải giải tỏa giao thông để phục vụ cho hoạt động của khu bến cảng Tiên Sa.

Tuy nhiên, theo báo cáo của UBND thành phố Đà Nẵng, việc giải tỏa giao thông khu vực Tiên Sa ngày càng khó khăn là do nhu cầu giao thông tại khu vực ngày càng tăng cao, việc đầu tư phát triển mở rộng kết cấu hạ tầng giao thông đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn nên rất khó thực hiện và khó đạt được hiệu quả đầu tư trong giai đoạn hiện nay.

Do vậy, cần sớm nâng cấp Khu bến cảng Liên Chiểu để đáp ứng yêu cầu vận tải hàng hóa bằng đường biển và phát triển kinh tế xã hội của khu vực miền Trung và của thành phố Đà Nẵng.

Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng Bến cảng Liên Chiểu (tại Thông báo 373/TB-VPCP ngày 25/9/2018 của Văn phòng Chính phủ), theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo việc đầu tư cảng Liên Chiểu dần thay thế cho cảng Tiên Sa là cần thiết và cấp bách.

Trên cơ sở tổng hợp toàn diện về nhu cầu phát triển Khu bến cảng Liên Chiểu (đã phân tích kỹ về hiệu quả của các phương án khai thác bến cảng Tiên Sa và phương án đầu tư Bến cảng Liên Chiểu để so sánh), đồng thời căn cứ các quy định của pháp luật về đầu tư xây dựng cảng biển, Phó Thủ tướng đồng ý với đề xuất của Bộ Giao thông vận tải và UBND thành phố Đà Nẵng, trước mắt giao UBND thành phố Đà Nẵng đảm nhận toàn bộ việc đầu tư xây dựng Bến cảng Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng; chịu trách nhiệm quản lý và thực hiện đầu tư các hạng mục công trình xây dựng của Dự án đầu tư xây dựng Bến cảng Liên Chiểu (Dự án) sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.

Việc giao chính thức cơ quan chủ quản của Dự án sẽ được Thủ tướng Chính phủ quyết định khi phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án, trên cơ sở đề xuất của Bộ Giao thông vận tải.

Phó Thủ tướng giao Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thẩm định Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án theo quy định của pháp luật, trong đó cần so sánh các phương án tổ chức giao thông đến Bến cảng Tiên Sa và Bến cảng Liên Chiểu để chọn phương án tối ưu (trong đó, khẳng định rõ sự cần thiết có hay không đầu tư Bến cảng Liên Chiểu để đáp ứng yêu cầu về vận tải hàng hóa, đảm bảo an toàn giao thông, hiệu quả đầu tư của Dự án và đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững)./.

 

 

 

Print
801 Rate this article:
No rating

Thư viện ảnh

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ - VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO - TỔNG CỤC THỂ DỤC THỂ THAO
Người chịu trách nhiệm chính: PGS.TS. Nguyễn Danh Hoàng Việt
Địa chỉ: 141 Nguyễn Thái Học - Ba Đình - Hà Nội * Điện thoại: (84-4) 733 0286 * FAX: (84-4) 733 4419
Website: vkhtdtt.vn; Email: banbientap.vkhtdtt@gmail.com

 

Close Copyright [2018] by TTTT
Back To Top